Hôm nay,  

Tình Yêu Không Hẹn Trước

14/02/202500:00:00(Xem: 4881)

tinh yeu khong hen truoc
Minh họa: Duy Thanh
 
Lúc tôi đậu thanh lọc, được chuyển từ trại “cấm” sang trại tự do, tinh thần vui vẻ, tôi không có ý định tiếp tục công việc ở post office mà muốn thử công việc mới, làm thiện nguyện 3 jobs không hề mệt mỏi . Sáng sớm dạy lớp English Vỡ Lòng cho người lớn tuổi tại trường ESL, sau đó chạy “show” qua trường Việt Ngữ dạy Tiếng Việt cho các em nhỏ, và thời gian còn lại trong ngày làm việc là dành cho Văn Phòng Cao Ủy Định Cư.

Nơi nào tôi cũng có người quen, vì ở trại Transit (tự do) này mọi người đều chung hoàn cảnh may mắn, đậu thanh lọc, chờ ngày tìm được phái đoàn nào đó phỏng vấn rồi đi định cư, tương lai phơi phới, nên chúng tôi mau chóng gần gũi mến thương nhau.

Ở trường ESL có một nhóm Thầy, Cô khá hợp “gu”, mặc dù tôi nhỏ tuổi nhất, ngoài giờ dạy, chúng tôi còn gặp nhau ngoài quán cafe, hủ tíu, đến nhà nhau ăn cơm mỗi khi có sinh nhật, giỗ quảy.

Trong nhóm này, tôi thân nhất với Chị, một phần vì Chị ở chung lô nhà, hai “nhà” đối diện nhau, gặp nhau cả ngày, đến trường cũng gặp nhau, phần khác là Chị cũng từng là giáo viên Tiểu Học như tôi khi còn ở Việt Nam, nên hai chị em ríu rít mỗi ngày, rủ nhau đi chợ, đi ăn, tối tối rảnh cùng vài Thầy Cô khác kéo nhau lên trường ESL tán dóc với Thầy Hiệu Trưởng “đóng đô” ngày đêm trên đó. (Thầy được phân công ở ngay căn phòng nơi cổng sau của trường).
 
Chị qua trại cùng với hai đứa con, một trai một gái, mười tuổi và tám tuổi. Chồng chị bị mất tích trên biển trong một chuyến vượt biên từ vài năm trước. Chị kể, chuyến tàu mang chồng chị và mấy chục người khác, ra khơi mấy tháng liền không có tin tức, tất cả các gia đình có người thân trong chuyến tàu dáo dác hỏi thăm nhau, rồi niềm hy vọng dần dần tàn lụi, đớn đau tuyệt vọng . Gần ba năm sau, chị quyết định mang hai đứa con lên đường ra khơi, mặc dù gia đình Chị ngăn cản vì lo sợ hiểm nguy, Chị bảo:

-        Chả lẽ số phận đã để ảnh mất tích trên biển, rồi không tha ba mẹ con chị luôn sao?
 
Vết thương nào rồi cũng nguôi ngoai, Chị tin rằng hoàn cảnh Chồng chị mất tích đã giúp ba mẹ con đến bờ tự do và may mắn đậu thanh lọc, Chị mong hương hồn Chồng tiếp tục phù hộ cho Chị và các con trên con đường tương lai khi định cư ở nước thứ ba.
 
Bữa đó tôi đến nhà Chị, thấy ba mẹ con đang ăn cơm với hai người tôi không quen biết, Chị giới thiệu:

-        Loan ơi, đây là Phúc, người đi chung chuyến tàu chị. Đây là Tân, em chồng của chị, cũng đi chung chuyến tàu, Phúc và Tân mới đậu thanh lọc, vừa nhập trại Transit mình hôm qua đó.
 
Tôi sà vào ăn cơm chung với cả nhà. Anh Phúc nhỏ hơn Chị 4 tuổi, còn Tân nhỏ hơn tôi hai tuổi . Bữa ăn hội ngộ rộn ràng, và Chị vui vẻ nhận lời nấu cơm tháng cho anh Phúc và Tân, vì đàn ông một mình vụng về cơm nước, mà Chị thì đằng nào cũng lo cơm nước cho ba mẹ con. Tôi nghe kể anh Phúc từng là giáo viên Tiếng Anh bên Việt Nam bèn đề nghị Chị rủ Anh Phúc vào dạy trường ESL, còn Tân thì có bạn sẽ giúp đưa vào làm  ngoài bệnh viện khu Lào-Hmong. (Ở trại tỵ nạn Thailand, những người đi làm thiện nguyện, ngoài chuyện mỗi tháng có chút lương bổng tượng trưng từ Cao Ủy, còn được ưu tiên miễn làm lao động định kỳ trong trại, và nhất là có chút ...uy với người xung quanh, nên chúng tôi, kẻ trước người sau, thường giới thiệu bạn bè quen biết cùng đi làm thiện nguyện).
 
 Thế là từ đó, hàng ngày, ngoài buổi sáng đi dạy chung, Anh qua nhà chị ăn hai bữa cơm, rồi dạy các con chị học bài hoặc chơi với chúng.
 
Tình yêu, có ai ngờ! Lửa gần rơm hay hai trái tim đã tìm thấy rung một nhịp đập? Anh chị bắt đầu yêu nhau, nhưng chỉ trong âm thầm vì còn biết bao cản trở xung quanh: Trước tiên là hàng rào tuổi tác (tình yêu chị em hả, có ai chấp nhận và hiểu cho!), rồi là rào cản của thị phi cuộc đời, làm sao thoát khỏi những cái miệng “rảnh rang”của những ông bà Tám cùng lô nhà, rằng “trai tân cặp với gái già”? Làm sao công khai nơi trường ESL khi họ vẫn gọi nhau là chị/em? Làm sao ăn nói với hai đứa nhỏ khi lâu nay chúng vẫn gọi anh là “chú” rất thân thương, yêu mến? (Từ “chú” chuyển thành “cha” khó à!). Ngoài ra, rào cản “nặng ký” khác là thằng Tân, em chồng đang ăn cơm tháng ở nhà chị. (Trên giấy tờ căn cước tỵ nạn của chị còn ghi rành rành tên chồng với ghi chú “Lost at Sea”).
 
Mà hai người dấu kỹ lắm, các Thầy Cô trường ESL không ai nghi ngờ, thằng Tân cũng rất vô tư chẳng tò mò thắc mắc, các “bà Tám” trong lô cũng chẳng chút mảy may đặt dấu hỏi gì, vì hàng ngày cả Anh và thằng Tân đều đến nhà Chị ăn cơm hai bữa, Anh nán lại chỉ bảo bài vở cho hai đứa nhỏ, và cũng có mặt tôi thường xuyên đến chơi nữa mà!
 
Tuy nhiên, Chị không thoát khỏi “cặp mắt sắc bén” của tôi, dầu đôi lần tôi ỡm ờ dọ ý Chị vẫn chối phăng. Cho đến một buổi chiều kia tôi đến cửa nhà Chị thì Anh vừa bước ra, tôi tiến vào nhà thì Chị còn đứng đó, trên tay là một nhánh hoa hồng đỏ, còn lấp lánh mấy giọt nước .
Lần này Chị bèn trút hết bầu tâm sự cho tôi nghe, thú nhận cõi lòng vì Anh vừa được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và nhận cho định cư, trong khi Chị và hai con đang bị Mỹ “pending” treo hồ sơ .

Chỉ cành hoa hồng, chị nói:

-        Ảnh tặng chị đó, ảnh nói hôm nay là Valentines, ngày Tình Yêu.
-        Ủa, ngày gì lạ à nghen, chắc ảnh mê chị rồi ảnh bịa ra, chớ nào giờ em có nghe gì về ngày này đâu nà!
-        Thì chị cũng như em, có biết gì đâu. Nhưng ảnh nói bà Sue người Úc bên Hội Thánh Tin Lành nói cho ảnh biết đó .
-        Vậy là có Ngày Tình Yêu thiệt hả chị?
 
Thấy Chị buồn, tôi khuyên Chị cứ chờ phái đoàn Mỹ tái phỏng vấn, và hãy để thời gian minh chứng tình yêu . Tôi cũng cảm thông khi hai người không dám công khai tình yêu . Tôi bảo, khi qua Mỹ rồi thì Chị và Anh nếu còn tình yêu thì lúc đó hai con sẽ hiểu và chấp nhận, còn với trại tỵ nạn thì trăm nghìn miệng lưỡi thế gian, vả lại, Anh cũng sắp lên đường định cư, thôi thì ráng giữ gìn cho nhau, hẹn ngày tái ngộ không xa.
 
Do vậy, họ tiếp tục yêu thầm lặng, chỉ trao nhau tình yêu qua ánh mắt, qua những cử chỉ lặng lẽ, và những cái nắm tay vội vã những lúc hiếm hoi ở bên nhau ngắn ngủi.  Một vài giờ riêng tư bên nhau cũng không thể , vì lúc nào cũng có con cái, thằng em chồng, hàng xóm xung quanh tấp nập, nên bỗng dưng mối tình trở nên “lén lút”, còn khổ hơn “cách núi ngăn sông”.
 
Cứ thế, cho đến ngày Anh có tên trong danh sách lên đường đi Mỹ. Nửa đêm hôm đó, khi cả trại còn say giấc, Anh liều mạng mò qua nhà Chị, rồi chui vào mùng (Chị ngủ 1 mùng, hai đứa nhỏ 1 mùng. Cũng may Anh không chui lộn mùng trong trời tối đen vì anh có mang theo cái đèn pin). Chị giật mình khi nhận ra Anh nhưng không nói một câu nào vì sợ hai con thức giấc. Họ hôn nhau dồn dập trong bóng đêm, vỡ oà bao nỗi niềm của những ngày câm nín. Khi Anh sắp chạm vào giới hạn “rực rỡ chơi vơi”, thì Chị bừng tỉnh, chỉnh lại áo quần, rồi lao ra bên ngoài. Anh sững sờ, rồi chạy theo Chị.
 
Chị vẫn chạy đi trong đêm, qua các lô nhà, băng qua những con đường gập ghềnh trong trại, đôi chân trần của Chị bị đau vì rướm máu. Anh vẫn đuổi theo sau, như hai bóng ma, không dám gọi tên nhau. Khi đến gần cổng trại, thấy có bóng lính Thái và ban bảo vệ đi tuần tra, Chị đành rẽ vào khu bể nước gần đó, vừa lúc Anh đuổi kịp. Anh ôm Chị, liên tục xin lỗi, và lau những giọt nước mắt nức nở, nghẹn ngào trên khuôn mặt người yêu, rồi hai người bước trở về khu nhà khi trời đang hừng sáng để tiễn anh lên đường đi định cư.
 
Những chi tiết trên, là Chị kể lại cho tôi nghe trong một chiều mưa sau khi anh rời trại được mấy hôm, lòng còn đầy nỗi niềm nhớ thương vời vợi.
 
Một thời gian sau đó, tôi đi định cư Canada, có viết về trại cho Chị vài lá thư rồi bị mất liên lạc, nghe nói ba mẹ con Chị cũng lên đường đi Mỹ.
 
Mỗi mùa Valentines tôi lại nhớ Chị, nhớ cành hoa hồng Anh tặng Chị năm xưa. Trong một lần gặp gỡ vài người tỵ nạn cũ ở California nhiều năm trước, có người cho tôi biết Chị từng sống ở Quận Cam, chỉ với hai đứa con, không có Anh, rồi ba mẹ con dọn đi tiểu bang khác. Vậy là mối tình nồng cháy, không hẹn trước nơi trại tỵ nạn ấy cũng theo “lời nguyền” mà dân tỵ nạn hay nói với nhau “chặt cua là khuất bóng”, chỉ còn là kỷ niệm mang theo trong đời!?
 
Tôi chợt nhớ câu hát của nhạc sĩ Trúc Phương tôi thường đùa, hát cho chị nghe mỗi khi chị nôn nao đợi chờ thư của Anh từ Mỹ Quốc:  “Đường vào tình yêu, có trăm lần vui, có vạn lần sầu …”, rồi chị mắc cở, mắng tôi: “Hát gì tầm phào không hà, nghe xui thấy mồ!”
 
Chẳng lẽ tôi có “cái miệng... ăn mắm ăn muối” thiệt sao!?
 
Edmonton, Valentines 2025
KIM LOAN

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.