Hôm nay,  

Tình Yêu Không Hẹn Trước

14/02/202500:00:00(Xem: 4880)

tinh yeu khong hen truoc
Minh họa: Duy Thanh
 
Lúc tôi đậu thanh lọc, được chuyển từ trại “cấm” sang trại tự do, tinh thần vui vẻ, tôi không có ý định tiếp tục công việc ở post office mà muốn thử công việc mới, làm thiện nguyện 3 jobs không hề mệt mỏi . Sáng sớm dạy lớp English Vỡ Lòng cho người lớn tuổi tại trường ESL, sau đó chạy “show” qua trường Việt Ngữ dạy Tiếng Việt cho các em nhỏ, và thời gian còn lại trong ngày làm việc là dành cho Văn Phòng Cao Ủy Định Cư.

Nơi nào tôi cũng có người quen, vì ở trại Transit (tự do) này mọi người đều chung hoàn cảnh may mắn, đậu thanh lọc, chờ ngày tìm được phái đoàn nào đó phỏng vấn rồi đi định cư, tương lai phơi phới, nên chúng tôi mau chóng gần gũi mến thương nhau.

Ở trường ESL có một nhóm Thầy, Cô khá hợp “gu”, mặc dù tôi nhỏ tuổi nhất, ngoài giờ dạy, chúng tôi còn gặp nhau ngoài quán cafe, hủ tíu, đến nhà nhau ăn cơm mỗi khi có sinh nhật, giỗ quảy.

Trong nhóm này, tôi thân nhất với Chị, một phần vì Chị ở chung lô nhà, hai “nhà” đối diện nhau, gặp nhau cả ngày, đến trường cũng gặp nhau, phần khác là Chị cũng từng là giáo viên Tiểu Học như tôi khi còn ở Việt Nam, nên hai chị em ríu rít mỗi ngày, rủ nhau đi chợ, đi ăn, tối tối rảnh cùng vài Thầy Cô khác kéo nhau lên trường ESL tán dóc với Thầy Hiệu Trưởng “đóng đô” ngày đêm trên đó. (Thầy được phân công ở ngay căn phòng nơi cổng sau của trường).
 
Chị qua trại cùng với hai đứa con, một trai một gái, mười tuổi và tám tuổi. Chồng chị bị mất tích trên biển trong một chuyến vượt biên từ vài năm trước. Chị kể, chuyến tàu mang chồng chị và mấy chục người khác, ra khơi mấy tháng liền không có tin tức, tất cả các gia đình có người thân trong chuyến tàu dáo dác hỏi thăm nhau, rồi niềm hy vọng dần dần tàn lụi, đớn đau tuyệt vọng . Gần ba năm sau, chị quyết định mang hai đứa con lên đường ra khơi, mặc dù gia đình Chị ngăn cản vì lo sợ hiểm nguy, Chị bảo:

-        Chả lẽ số phận đã để ảnh mất tích trên biển, rồi không tha ba mẹ con chị luôn sao?
 
Vết thương nào rồi cũng nguôi ngoai, Chị tin rằng hoàn cảnh Chồng chị mất tích đã giúp ba mẹ con đến bờ tự do và may mắn đậu thanh lọc, Chị mong hương hồn Chồng tiếp tục phù hộ cho Chị và các con trên con đường tương lai khi định cư ở nước thứ ba.
 
Bữa đó tôi đến nhà Chị, thấy ba mẹ con đang ăn cơm với hai người tôi không quen biết, Chị giới thiệu:

-        Loan ơi, đây là Phúc, người đi chung chuyến tàu chị. Đây là Tân, em chồng của chị, cũng đi chung chuyến tàu, Phúc và Tân mới đậu thanh lọc, vừa nhập trại Transit mình hôm qua đó.
 
Tôi sà vào ăn cơm chung với cả nhà. Anh Phúc nhỏ hơn Chị 4 tuổi, còn Tân nhỏ hơn tôi hai tuổi . Bữa ăn hội ngộ rộn ràng, và Chị vui vẻ nhận lời nấu cơm tháng cho anh Phúc và Tân, vì đàn ông một mình vụng về cơm nước, mà Chị thì đằng nào cũng lo cơm nước cho ba mẹ con. Tôi nghe kể anh Phúc từng là giáo viên Tiếng Anh bên Việt Nam bèn đề nghị Chị rủ Anh Phúc vào dạy trường ESL, còn Tân thì có bạn sẽ giúp đưa vào làm  ngoài bệnh viện khu Lào-Hmong. (Ở trại tỵ nạn Thailand, những người đi làm thiện nguyện, ngoài chuyện mỗi tháng có chút lương bổng tượng trưng từ Cao Ủy, còn được ưu tiên miễn làm lao động định kỳ trong trại, và nhất là có chút ...uy với người xung quanh, nên chúng tôi, kẻ trước người sau, thường giới thiệu bạn bè quen biết cùng đi làm thiện nguyện).
 
 Thế là từ đó, hàng ngày, ngoài buổi sáng đi dạy chung, Anh qua nhà chị ăn hai bữa cơm, rồi dạy các con chị học bài hoặc chơi với chúng.
 
Tình yêu, có ai ngờ! Lửa gần rơm hay hai trái tim đã tìm thấy rung một nhịp đập? Anh chị bắt đầu yêu nhau, nhưng chỉ trong âm thầm vì còn biết bao cản trở xung quanh: Trước tiên là hàng rào tuổi tác (tình yêu chị em hả, có ai chấp nhận và hiểu cho!), rồi là rào cản của thị phi cuộc đời, làm sao thoát khỏi những cái miệng “rảnh rang”của những ông bà Tám cùng lô nhà, rằng “trai tân cặp với gái già”? Làm sao công khai nơi trường ESL khi họ vẫn gọi nhau là chị/em? Làm sao ăn nói với hai đứa nhỏ khi lâu nay chúng vẫn gọi anh là “chú” rất thân thương, yêu mến? (Từ “chú” chuyển thành “cha” khó à!). Ngoài ra, rào cản “nặng ký” khác là thằng Tân, em chồng đang ăn cơm tháng ở nhà chị. (Trên giấy tờ căn cước tỵ nạn của chị còn ghi rành rành tên chồng với ghi chú “Lost at Sea”).
 
Mà hai người dấu kỹ lắm, các Thầy Cô trường ESL không ai nghi ngờ, thằng Tân cũng rất vô tư chẳng tò mò thắc mắc, các “bà Tám” trong lô cũng chẳng chút mảy may đặt dấu hỏi gì, vì hàng ngày cả Anh và thằng Tân đều đến nhà Chị ăn cơm hai bữa, Anh nán lại chỉ bảo bài vở cho hai đứa nhỏ, và cũng có mặt tôi thường xuyên đến chơi nữa mà!
 
Tuy nhiên, Chị không thoát khỏi “cặp mắt sắc bén” của tôi, dầu đôi lần tôi ỡm ờ dọ ý Chị vẫn chối phăng. Cho đến một buổi chiều kia tôi đến cửa nhà Chị thì Anh vừa bước ra, tôi tiến vào nhà thì Chị còn đứng đó, trên tay là một nhánh hoa hồng đỏ, còn lấp lánh mấy giọt nước .
Lần này Chị bèn trút hết bầu tâm sự cho tôi nghe, thú nhận cõi lòng vì Anh vừa được phái đoàn Mỹ phỏng vấn và nhận cho định cư, trong khi Chị và hai con đang bị Mỹ “pending” treo hồ sơ .

Chỉ cành hoa hồng, chị nói:

-        Ảnh tặng chị đó, ảnh nói hôm nay là Valentines, ngày Tình Yêu.
-        Ủa, ngày gì lạ à nghen, chắc ảnh mê chị rồi ảnh bịa ra, chớ nào giờ em có nghe gì về ngày này đâu nà!
-        Thì chị cũng như em, có biết gì đâu. Nhưng ảnh nói bà Sue người Úc bên Hội Thánh Tin Lành nói cho ảnh biết đó .
-        Vậy là có Ngày Tình Yêu thiệt hả chị?
 
Thấy Chị buồn, tôi khuyên Chị cứ chờ phái đoàn Mỹ tái phỏng vấn, và hãy để thời gian minh chứng tình yêu . Tôi cũng cảm thông khi hai người không dám công khai tình yêu . Tôi bảo, khi qua Mỹ rồi thì Chị và Anh nếu còn tình yêu thì lúc đó hai con sẽ hiểu và chấp nhận, còn với trại tỵ nạn thì trăm nghìn miệng lưỡi thế gian, vả lại, Anh cũng sắp lên đường định cư, thôi thì ráng giữ gìn cho nhau, hẹn ngày tái ngộ không xa.
 
Do vậy, họ tiếp tục yêu thầm lặng, chỉ trao nhau tình yêu qua ánh mắt, qua những cử chỉ lặng lẽ, và những cái nắm tay vội vã những lúc hiếm hoi ở bên nhau ngắn ngủi.  Một vài giờ riêng tư bên nhau cũng không thể , vì lúc nào cũng có con cái, thằng em chồng, hàng xóm xung quanh tấp nập, nên bỗng dưng mối tình trở nên “lén lút”, còn khổ hơn “cách núi ngăn sông”.
 
Cứ thế, cho đến ngày Anh có tên trong danh sách lên đường đi Mỹ. Nửa đêm hôm đó, khi cả trại còn say giấc, Anh liều mạng mò qua nhà Chị, rồi chui vào mùng (Chị ngủ 1 mùng, hai đứa nhỏ 1 mùng. Cũng may Anh không chui lộn mùng trong trời tối đen vì anh có mang theo cái đèn pin). Chị giật mình khi nhận ra Anh nhưng không nói một câu nào vì sợ hai con thức giấc. Họ hôn nhau dồn dập trong bóng đêm, vỡ oà bao nỗi niềm của những ngày câm nín. Khi Anh sắp chạm vào giới hạn “rực rỡ chơi vơi”, thì Chị bừng tỉnh, chỉnh lại áo quần, rồi lao ra bên ngoài. Anh sững sờ, rồi chạy theo Chị.
 
Chị vẫn chạy đi trong đêm, qua các lô nhà, băng qua những con đường gập ghềnh trong trại, đôi chân trần của Chị bị đau vì rướm máu. Anh vẫn đuổi theo sau, như hai bóng ma, không dám gọi tên nhau. Khi đến gần cổng trại, thấy có bóng lính Thái và ban bảo vệ đi tuần tra, Chị đành rẽ vào khu bể nước gần đó, vừa lúc Anh đuổi kịp. Anh ôm Chị, liên tục xin lỗi, và lau những giọt nước mắt nức nở, nghẹn ngào trên khuôn mặt người yêu, rồi hai người bước trở về khu nhà khi trời đang hừng sáng để tiễn anh lên đường đi định cư.
 
Những chi tiết trên, là Chị kể lại cho tôi nghe trong một chiều mưa sau khi anh rời trại được mấy hôm, lòng còn đầy nỗi niềm nhớ thương vời vợi.
 
Một thời gian sau đó, tôi đi định cư Canada, có viết về trại cho Chị vài lá thư rồi bị mất liên lạc, nghe nói ba mẹ con Chị cũng lên đường đi Mỹ.
 
Mỗi mùa Valentines tôi lại nhớ Chị, nhớ cành hoa hồng Anh tặng Chị năm xưa. Trong một lần gặp gỡ vài người tỵ nạn cũ ở California nhiều năm trước, có người cho tôi biết Chị từng sống ở Quận Cam, chỉ với hai đứa con, không có Anh, rồi ba mẹ con dọn đi tiểu bang khác. Vậy là mối tình nồng cháy, không hẹn trước nơi trại tỵ nạn ấy cũng theo “lời nguyền” mà dân tỵ nạn hay nói với nhau “chặt cua là khuất bóng”, chỉ còn là kỷ niệm mang theo trong đời!?
 
Tôi chợt nhớ câu hát của nhạc sĩ Trúc Phương tôi thường đùa, hát cho chị nghe mỗi khi chị nôn nao đợi chờ thư của Anh từ Mỹ Quốc:  “Đường vào tình yêu, có trăm lần vui, có vạn lần sầu …”, rồi chị mắc cở, mắng tôi: “Hát gì tầm phào không hà, nghe xui thấy mồ!”
 
Chẳng lẽ tôi có “cái miệng... ăn mắm ăn muối” thiệt sao!?
 
Edmonton, Valentines 2025
KIM LOAN

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.