Hôm nay,  

Đức Hạnh Cao Quý

21/03/202500:00:00(Xem: 2957)

minh-họa-Đinh-Trường-Chinh
Minh họa của họa sĩ Đinh Trường Chinh
 
Xin tri ơn thầy Thích Tâm Đức
Xin tri ơn tác giả Nguyễn Tường Bách qua tác phẩm Mùi Hương Trầm
Chúc Thanh 
 
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt.
 
Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật.
 
Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn.
 
Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
 
Người dân vùng quê Tây Tạng nổi tiếng là có tín tâm, có lòng tin sâu xa vào phật pháp mà không cần phải có trình độ hiểu biết cao siêu.
 
Ở miền Kongpo có rất nhjiều tu viện, tu viện Jokhang ở Lhasa là nổi tiếng đẹp và linh thiêng. Nơi đây thờ tượng phật Thích Ca là Sa Môn Cồ Đàm thời niên thiếu, ngài được người Tây Tạng tôn kính và gọi là một Rinpoche, Jowo Rinpoche, là vị đức hạnh cao quý.
 
Tượng phật này nguyên thủy ở Trung Hoa, xưa được một bà công chúa Trung Hoa lấy chồng là vua Tây Tạng, bà thỉnh tượng mang về Jokhang để thờ, bái lạy.
 
Người dân tương truyền rằng tượng phật Jowo Rinpoche là linh thiêng nhứt và đền Jokhang là ngôi đền đẹp nất ở Tây Tạng. Ai ai quanh vùng cũng nghe tiếng cũng mong muốn được đến viếng đền và đảnh lễ ngài Jowo Rinpoche, mệnh danh là phật đức hạnh cao quý.
 
Truyện kể rằng, có một thanh niên quê mùa là Ben (Benoit) ở miệt quê Kongpo cách xa đền Jokhang rất xa, từ lâu anh làm lụng vất vả và dành dụm tiền bạc và chỉ mơ ước trong đời được một lần đến viếng Sa Môn Cồ Đàm được Tây Tạng hóa tại ngôi đền đẹp nhất vùng Lhasa ấy.
Rồi một ngày nọ, sau những chuyến đi vất vả, anh cũng đến được kinh đô Lhasa. Anh đi thăm các tu viện nơi đào tạo các tăng sĩ, rồi vào đảnh lễ đức phật Jowo Rinpoche.
 
Bức tượng cao to như người thiệt, trên kia, ngài toát ra những gì tôn quý, tuy rất thầm lặng nhưng làm cho Ben xúc động đến rùng mình sung sướng. Anh toát mồ hôi như được tắm mát và rưng rưng nước mắt hạnh phúc, ngài đó, ngài trước mặt Ben đó.
 
Anh muốn quỳ gối đảnh lễ bậc tôn kính, nhưng mấy lần, lần nào anh cũng bị vướng vì đôi bottes dài quá làm anh không quỳ gối được, thêm cái mũ vải cũ kỹ trên đầu, cứ mỗi lần anh nghiêng mình, chưa kịp cúi xuống lạy, là cái mũ chết tiệt đã rơi nhẹ nhàng xuống đất. Anh chàng Ben quê mùa vụng về, ngặt là anh có nhiều tín tâm hơn là thiên về các phép lịch sự khéo léo của người ở kinh đô.
 
Sau cùng Ben bèn cởi bỏ đôi ủng và cái mũ vãi, anh đập rơi bụi rồi hồn nhiên đặt hết chúng lên lòng bức tượng và thầm nói: «thưa ngài Rinpoche ngài giữ dùm con mấy cái thứ lỉnh kỉnh đặng con tĩnh tâm chiêm bái và đảnh lễ ngài.»
 
Lạy phật xong anh đi vòng quanh bệ thờ và nhìn ngắm phật từ bốn phía, nhìn ngắm các loại đèn sáng rỡ. Anh cũng xin bánh cúng ăn cho đỡ đói lòng… anh đói và xung quanh đây đâu có gì để mua ăn đâu. Sau cùng anh hồn nhiên mời đón phật về Kongpo, là quê hương anh bất cứ ngày giờ nào thuận tiện với ngài.
 
Anh làm nghề mổ heo và anh vui sướng hứa khi đó phật về, anh sẽ làm một con heo ngon nhất, quay thơm vàng để đãi ngài. Anh khẩn khoản mời và rất hồn nhiên khấn vái, sau cùng anh tin là ngài Jowo Rinpoche đã nhận lời, dù rằng anh không hề biết là phật không ưa sát sinh mỗi ngày như anh.
 
Ngay lúc anh đang hí hửng nói về tài quay heo rộn ràng của anh thì cánh cửa đền bật mở, vị sư già thủ từ bước vô và giựt mình chợt thấy đôi giầy dính bùn và cái mũ vải đầy bụi… nằm thu lu trong lòng đức phật!
 
Ngài định đưa tay tính chụp chúng mang ra chỗ khác. Bỗng có một tiếng nói từ xa xăm rót vô tai ngài, rất rõ ràng: «ngừng tay, đừng làm di động chúng, những thứ này là đồ dùng cần thiết của đứa học trò ta từ xa tới.»
 
Vị sư già thu tay lại, xin lỗi và nhẹ nhàng bước ra ngoài sau khi đã khép kín cửa điện, để cho một mình Ben tự do bái lạy, kể lể và mời mọc.
 
Rồi sau đó, Ben cũng phải lạy từ giã và về quê làm việc. Khi anh về đến quê Kongpo, anh đã nghe người dân làng đồn đại là anh đã đi thăm viếng đức phật ở thủ đô Lhasa, được thưa chuyện với ngài là đức hạnh cao quý và mời được ngài về quê anh.
 
Người ta kể rằng ngài đức hạnh cao quý về Kongpo thiệt, theo lời mời của Ben, vì Ben đã thấy ngài hiện ra trước mắt anh, lung linh trong một dòng suối mát trong vùng quê. Và nhiều người cũng thấy ngài như anh.
 
Mãi mãi về sau này, người dân miền Kongpo vẫn đi quanh hồ nước có in dấu tích ngài Jowo Rinpoche đang mỉm cười và họ bái lạy tượng phật đức hạnh cao quý bằng cách nằm và cúi đầu sát mặt đất.
 
Thủ đô Lhasa và đền Kongpo tuy có xa miền quê Kongpo, nhưng người dân Tây Tạng Kongpo luôn sống với niềm tin là vị phật đức hạnh cao quý luôn ở gần họ. Bên cạnh họ.
 
Với tính cách đối xử vô phân biệt, không chọn lọc, đức phật đã làm lan tỏa lòng từ bi vô biên. Ngài rải tâm từ cùng khắp nơi nơi chủ ý tạo ra sự bình đẳng giữa mọi chúng sanh, giữa muôn loài trong vô cùng khắp nẻo ta bà thế giới.
 
A Di Đà Phật
Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.