Hôm nay,  

Đức Hạnh Cao Quý

21/03/202500:00:00(Xem: 2956)

minh-họa-Đinh-Trường-Chinh
Minh họa của họa sĩ Đinh Trường Chinh
 
Xin tri ơn thầy Thích Tâm Đức
Xin tri ơn tác giả Nguyễn Tường Bách qua tác phẩm Mùi Hương Trầm
Chúc Thanh 
 
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt.
 
Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật.
 
Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn.
 
Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
 
Người dân vùng quê Tây Tạng nổi tiếng là có tín tâm, có lòng tin sâu xa vào phật pháp mà không cần phải có trình độ hiểu biết cao siêu.
 
Ở miền Kongpo có rất nhjiều tu viện, tu viện Jokhang ở Lhasa là nổi tiếng đẹp và linh thiêng. Nơi đây thờ tượng phật Thích Ca là Sa Môn Cồ Đàm thời niên thiếu, ngài được người Tây Tạng tôn kính và gọi là một Rinpoche, Jowo Rinpoche, là vị đức hạnh cao quý.
 
Tượng phật này nguyên thủy ở Trung Hoa, xưa được một bà công chúa Trung Hoa lấy chồng là vua Tây Tạng, bà thỉnh tượng mang về Jokhang để thờ, bái lạy.
 
Người dân tương truyền rằng tượng phật Jowo Rinpoche là linh thiêng nhứt và đền Jokhang là ngôi đền đẹp nất ở Tây Tạng. Ai ai quanh vùng cũng nghe tiếng cũng mong muốn được đến viếng đền và đảnh lễ ngài Jowo Rinpoche, mệnh danh là phật đức hạnh cao quý.
 
Truyện kể rằng, có một thanh niên quê mùa là Ben (Benoit) ở miệt quê Kongpo cách xa đền Jokhang rất xa, từ lâu anh làm lụng vất vả và dành dụm tiền bạc và chỉ mơ ước trong đời được một lần đến viếng Sa Môn Cồ Đàm được Tây Tạng hóa tại ngôi đền đẹp nhất vùng Lhasa ấy.
Rồi một ngày nọ, sau những chuyến đi vất vả, anh cũng đến được kinh đô Lhasa. Anh đi thăm các tu viện nơi đào tạo các tăng sĩ, rồi vào đảnh lễ đức phật Jowo Rinpoche.
 
Bức tượng cao to như người thiệt, trên kia, ngài toát ra những gì tôn quý, tuy rất thầm lặng nhưng làm cho Ben xúc động đến rùng mình sung sướng. Anh toát mồ hôi như được tắm mát và rưng rưng nước mắt hạnh phúc, ngài đó, ngài trước mặt Ben đó.
 
Anh muốn quỳ gối đảnh lễ bậc tôn kính, nhưng mấy lần, lần nào anh cũng bị vướng vì đôi bottes dài quá làm anh không quỳ gối được, thêm cái mũ vải cũ kỹ trên đầu, cứ mỗi lần anh nghiêng mình, chưa kịp cúi xuống lạy, là cái mũ chết tiệt đã rơi nhẹ nhàng xuống đất. Anh chàng Ben quê mùa vụng về, ngặt là anh có nhiều tín tâm hơn là thiên về các phép lịch sự khéo léo của người ở kinh đô.
 
Sau cùng Ben bèn cởi bỏ đôi ủng và cái mũ vãi, anh đập rơi bụi rồi hồn nhiên đặt hết chúng lên lòng bức tượng và thầm nói: «thưa ngài Rinpoche ngài giữ dùm con mấy cái thứ lỉnh kỉnh đặng con tĩnh tâm chiêm bái và đảnh lễ ngài.»
 
Lạy phật xong anh đi vòng quanh bệ thờ và nhìn ngắm phật từ bốn phía, nhìn ngắm các loại đèn sáng rỡ. Anh cũng xin bánh cúng ăn cho đỡ đói lòng… anh đói và xung quanh đây đâu có gì để mua ăn đâu. Sau cùng anh hồn nhiên mời đón phật về Kongpo, là quê hương anh bất cứ ngày giờ nào thuận tiện với ngài.
 
Anh làm nghề mổ heo và anh vui sướng hứa khi đó phật về, anh sẽ làm một con heo ngon nhất, quay thơm vàng để đãi ngài. Anh khẩn khoản mời và rất hồn nhiên khấn vái, sau cùng anh tin là ngài Jowo Rinpoche đã nhận lời, dù rằng anh không hề biết là phật không ưa sát sinh mỗi ngày như anh.
 
Ngay lúc anh đang hí hửng nói về tài quay heo rộn ràng của anh thì cánh cửa đền bật mở, vị sư già thủ từ bước vô và giựt mình chợt thấy đôi giầy dính bùn và cái mũ vải đầy bụi… nằm thu lu trong lòng đức phật!
 
Ngài định đưa tay tính chụp chúng mang ra chỗ khác. Bỗng có một tiếng nói từ xa xăm rót vô tai ngài, rất rõ ràng: «ngừng tay, đừng làm di động chúng, những thứ này là đồ dùng cần thiết của đứa học trò ta từ xa tới.»
 
Vị sư già thu tay lại, xin lỗi và nhẹ nhàng bước ra ngoài sau khi đã khép kín cửa điện, để cho một mình Ben tự do bái lạy, kể lể và mời mọc.
 
Rồi sau đó, Ben cũng phải lạy từ giã và về quê làm việc. Khi anh về đến quê Kongpo, anh đã nghe người dân làng đồn đại là anh đã đi thăm viếng đức phật ở thủ đô Lhasa, được thưa chuyện với ngài là đức hạnh cao quý và mời được ngài về quê anh.
 
Người ta kể rằng ngài đức hạnh cao quý về Kongpo thiệt, theo lời mời của Ben, vì Ben đã thấy ngài hiện ra trước mắt anh, lung linh trong một dòng suối mát trong vùng quê. Và nhiều người cũng thấy ngài như anh.
 
Mãi mãi về sau này, người dân miền Kongpo vẫn đi quanh hồ nước có in dấu tích ngài Jowo Rinpoche đang mỉm cười và họ bái lạy tượng phật đức hạnh cao quý bằng cách nằm và cúi đầu sát mặt đất.
 
Thủ đô Lhasa và đền Kongpo tuy có xa miền quê Kongpo, nhưng người dân Tây Tạng Kongpo luôn sống với niềm tin là vị phật đức hạnh cao quý luôn ở gần họ. Bên cạnh họ.
 
Với tính cách đối xử vô phân biệt, không chọn lọc, đức phật đã làm lan tỏa lòng từ bi vô biên. Ngài rải tâm từ cùng khắp nơi nơi chủ ý tạo ra sự bình đẳng giữa mọi chúng sanh, giữa muôn loài trong vô cùng khắp nẻo ta bà thế giới.
 
A Di Đà Phật
Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật
Má Chanh mất rồi, đưa vô bệnh viện bị má khó thở, rồi bà đi rất mau, đi ngay trong phòng khám. Ông nói một hơi rồi lặng lẽ khóc… khóc ấm ức, nghẹn! Cứ nhìn ông già khóc vợ nghẹn lời, mà nhớ lại nhiều lần ông còn như muốn kể lể: Cuộc tình của ba với má Chanh gián đoạn rồi kết nối nhiều lần mà không đáng buồn vì là cuối đời ba vẫn yêu quý má, má vẫn yêu thương ba như ngày đầu mới gặp…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.