Hôm nay,  

Say Cùng Tháng Tư

24/04/202516:00:00(Xem: 1980)
Nơi gac vang
Tranh minh họa: Huỳnh Lê Nhật Tấn

  

 

Dễ cũng vài mươi năm nay, cứ vào tháng Tư bất kể ngày nào, miễn là ngày đó bạn bè có thể thu xếp được là phải hẹn gặp nhau. Buổi họp mặt Tháng Tư lặng lẽ hơn so với những buổi họp mặt khác. Vẫn tay bắt mặt mừng bạn cũ lâu ngày, đâu đó nếu nghe tiếng cười, có chăng là gượng gạo.

 

Trong bữa cơm chiều hôm đó cùng nhóm bạn thân, khoảng dăm cặp vợ chồng, trong số đó có một anh thuộc Quân chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Anh Không Quân nhắc về một ngày tháng Tư 1975 khi anh đang điều khiển chiếc trực thăng trên vùng trời miền Trung, nghe tin vị Tổng Thống cuối cùng của miền Nam đầu hàng, anh bèn bay ra biển Đông tìm đường thoát thân.

 

Trong nhóm bạn bè có người hỏi:

 

“Lúc đó vợ con anh ở đâu?”

 

“Tôi chưa có người yêu nói chi đến vợ.”

 

 “Rồi anh cùng trực thăng bay đi đâu?” 

 

“Tôi bay ra biển, trực thăng báo hiệu hết xăng. May quá tôi gặp một con tàu, tôi báo tín hiệu xin đáp xuống và họ đồng ý. Khi trực thăng của tôi vừa đáp xuống, viên chỉ huy tàu ra lệnh cho các thủy thủ đem sơn xịt trắng hết chiếc trực thăng của tôi. Tôi bậm môi ứa nước mắt vì biết rằng thế là mất tất cả.”

 

“Anh có nghĩ về gia đình của mình lúc đó?”

 

“Tía Má và anh em tôi ở bên bờ kênh Cái Sắn, tỉnh Cà Mau. Tôi biết gia đình mình ở gần bà con ruột thịt nên tôi an tâm. Nhưng về phần gia đình của tôi thì trái lại, họ lo lắng chờ mong tin tôi sau nhiều năm bặt tin.”

 

Anh kể tiếp:

 

“Tía Má tôi tìm đến một ông thầy bói hàng xóm xem quẻ hy vọng tôi vẫn còn sống sót đâu đó mà trở về. Nhưng hy vọng đã tan vào mây mờ và khói nhang che phủ căn nhà của Tía Má vì ông thầy bói phán một câu chắc nịch: “Chết rồi!” Má tôi khóc nhiều nhất sau khi xem bói về. Kể từ đó, Tía Má tôi cho phóng to tấm hình chân dung của tôi để đặt lên bàn thờ, chọn ngày giỗ của tôi là ngày ba mươi tháng Tư hàng năm.”

 

“Nhưng rồi câu chuyện đến lúc nào mới có hồi kết?”

 

“Sau 12 năm, một khoảng thời gian đủ dài, chú Hai, thầy giáo làng và là hàng xóm kế bên nhà Tía Má tôi, từng có con trai theo anh em bạn vượt biển tìm tự do và bị mất tích, là người biết tôi còn sống. Ngày nào chú Hai cũng đạp xe ra bưu điện xã để lục lọi thùng rác bưu điện với mong mỏi biết đâu một ngày nào đó nhận được thư từ con trai của chú để biết rằng nó còn sống. (Bưu điện xã thực chất chỉ là cái chòi lá bỏ hoang của bà Tám. Cán bộ không ưa những nhà dân có liên hệ đến chế độ cũ nên các thư gửi về từ nước ngoài thường bị ngấm ngầm xé bỏ). Một hôm, tình cờ chú Hai lục thùng rác thấy một cái phong bì lớn màu hồng chưa bị xé rách. Tên người nhận là Tía Má tôi và tôi là người gửi cái thiệp đó. Nhìn tên tôi là chú Hai nhớ ngay ra đứa nhỏ hằng ngày được chú Hai chở quá giang trên chiếc xe đạp để đến trường.”

 

“Nhưng có gì trong thư đó?”

 

“Từ từ để tôi kể đầu đuôi. Chú Hai đạp chiếc xe cọc cạch về xóm, mừng vui hét to cho cả làng rằng tôi vẫn còn sống. Kéo dài sự háo hức của mọi người, chú Hai còn kể dài giòng: “Tui nhìn vô thùng rác thấy có một phong bì lớn màu hồng đẹp lắm, may mắn phong bì này còn nguyên không bị xé. Nhìn rõ ràng địa chỉ nhà hàng xóm ngay cạnh nhà của tui, tên người gửi là tên của thằng học trò của tui xa xưa nè. Ngày xưa Tía Má nó không cho nó đi học, lý do là Tía Má nó nói nhà cửa ruộng lúa của họ mênh mông ngút ngàn…ăn và sống cho đến đời con cháu của họ cũng chưa hết nên muốn thằng nhỏ ở nhà giúp làm ruộng rẫy. Tui thấy mặt mũi nó sáng sủa nên tình nguyện chở nó đi học mỗi ngày.” Chú Hai kể dứt lời thì chiếc phong bì được mở ra, trong đó có một thiệp cưới màu hồng báo tin tôi lập gia đình. Cả làng chuyền tay nhau xem thiệp và cười vui chúc mừng.”

 

Kể đến đây giọng anh bạn hơi nghèn nghẹn:

 

“Nhớ ngày còn nhỏ tôi được ngồi trên chiếc xe đạp của chú Hai. Cũng nhờ chú khích lệ việc học nên tôi còn ra đến tỉnh học thi Tú Tài và sau đó được tuyển vào Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Tôi biết ơn Chú Hai vì nhờ ông mà tôi được đi học để mở mang kiến thức mà cũng do ông nên gia đình biết tôi còn sống.”

 

“Vậy chớ anh có giận ông thầy bói không?”

 

“Cớ gì mà giận? Ngay lúc biết được tin tôi còn sống, có người la lớn: “Qua nhà ông thầy bói quở ổng bói sai rồi.” Rồi cả xóm ổn ào, người thì đòi ông thầy bói trả lại tiền xem bói, người thì nói thôi bỏ qua vì không ai chết là vui rồi. Thế rồi ngày hôm sau ông thầy bói qua nhà Tía Má tôi nói lời xin lỗi và giúp hạ tấm hình của tôi trên bàn thờ xuống, hứa sẽ giải nghệ không làm nghề thầy bói nữa. Nghe đâu sau này ổng bỏ xứ đi chỗ khác. Tôi tiếc là không gặp được ổng.”

 

“Trời, tiếc chi nữa anh?”

 

Anh bạn cười ha hả:

 

“Để bắt tay ông thầy bói rồi nói với ổng một câu là: “Nhờ Thầy mà cứ đến “Ngày Tui Chết” thì cả xóm của Tía Má tui được ăn Gà Khoả Thân”.

 

Bạn hữu sum họp cùng nhau để sống lại những kỷ niệm, chuyện cũ ôn đi ôn lại nói hoài mà vẫn tưởng là chuyện chưa kể trong khi chuyện mới thì hiếm được nghe. Năm nay, mọi người tề tựu tại nhà Anh. Chị thì thầm bên tai nhắc Anh uống chừng mực, Anh càng lầm lì rót thêm. Rượu vào mềm môi, tê đầu lưỡi, khiến Anh đang cảm giác mình ở nơi xa xăm lắm, giọng nói trở nên chơi vơi. Câu chuyện về cái bàn thờ của anh bạn Không Quân khiến Anh chạnh lòng nhìn lên bàn thờ có hình cha mẹ mình. Quên hẳn mình đang ngồi bên đám bạn hữu, Anh khề khà:

 

“Ba Má à, giờ con gần tám chục tuổi rồi…Con nhớ …ngày mới lớn …con mê chơi quá, lười học theo đám bạn lêu lổng phá làng, phá xóm … “cúp cua” không đi học, đàn đúm bạn bè vào rạp hát xem phim, không chịu vào trường học …Má gửi con lên Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng ở cùng gia đình anh chị Ba. Anh Ba là con rể của Má đó, Má nhớ không?”

 

Trên bàn thờ, tấm hình Má vẫn cười tươi nhìn thằng con “bất trị” ngày trước. Chuếnh choáng, Anh xưng Tui với Má:

 

“Má nhớ không, lúc đó anh Ba con rể của Má làm chức lớn gì đó trong tỉnh. Ảnh có một cái xe máy loại giành riêng cho cấp Tỉnh …Tui bèn “mượn tạm” xe đó chạy khắp nơi … Hôm sau anh Ba bị cấp trên khiển trách …Rồi Má lại phải xe đò lặn lội lên Bảo Lộc, Lâm Đồng rước tui về, vì Anh Chị Ba sợ trách nhiệm do Má giao không hoàn thành, vì tui trốn học hoài…Nghĩ lại tui thương Má quá, Má ơi! May quá, khi về Sài Gòn, tui thi đậu Đệ Thất (là lớp Sáu bây giờ), Má mừng quá chừng, tui lo học hành trong ngôi trường lớn nơi mà kỷ luật đâu vào đó. Rồi tui thi đậu Tú Tài khi chiến tranh tràn lan khắp nước. Tui khoái màu áo rằn ri nên xung phong đi lính luôn.”

 

Bạn bè yên lặng rót rượu mời nhau. Họ tôn trọng những phút giây Anh thì thầm độc thoại: “Ba Má à, Tháng Tư 1975 “bên thắng cuộc” không cùng chiến tuyến chiến tuyến với con đã buộc con cũng như các quân nhân của nhiều binh chủng khác vào nơi rừng thiêng nước độc để “tập trung cải tạo”. Con tơi tả xác thân. Sau tám năm tù đày, trong trại tù bắt đầu xôn xao nghe tin một số người “được thả”, được “tha về” nhưng tên con thì không được gọi. Con biết một số bạn tù được tập trung nơi cái chòi riêng, được ăn uống đầy đủ hơn một chút, được sự chuẩn bị tinh thần, thư từ nhắn gia đình đến đón về…Riêng con, vẫn hàng ngày vác cái cuốc xẻng, vẫn đói, vẫn xác xơ lao động. Rồi cái ngày lạ lùng đó đến khiến con nhớ mãi. Hôm ấy con chuẩn bị vào rừng sâu lao khổ, một tên cán bộ coi tù đến trước mặt:

 

“ Lên văn phòng gặp tôi.”

 

Con tự hỏi chúng lại tìm lý do nào đó để hành hạ mình nữa đây, chắc chúng lại nhốt con trong CONEX thôi.

 

“Ngồi xuống đi!”

 

Tên cán bộ hất hàm. Con ngồi bình tĩnh chờ việc gì sẽ xảy ra với mình. Hắn nhìn con chằm chằm vài giây  rồi nói cộc cằn:

 

“Được thả, lý do sơ sót tên. Anh về lán gom đồ đạc rồi ra đây gặp lại.”

 

Có phần ngỡ ngàng, con không tin vào điều vừa nghe. Quay bước về lán trại gần mà tưởng như xa tít tắp, con gom mớ vật dụng cá nhân ít ỏi của mình đem phân phát lại cho vài bạn tù thân thiết còn lại.

 

Miệng khô khát, Anh nhếch cười gằn giọng:

 

“Ba Má có biết không, gia tài duy nhất của con là Giấy Được Tha và tờ tiền một trăm đồng thời đó.”

 

Trí nhớ Anh dường như chứa cả một kho ký ức nhưng sao kể lại thì khó khăn quá. Chẳng phải vì Anh say. Chẳng phải vì Anh líu lưỡi do men cay. Có lẽ tâm tư về những năm tháng ấy trĩu nặng. Dù gì Anh cũng phải nói ra cho vơi buồn dẫu người nghe ở tận nghìn trùng hay cận kề. Anh chỉ biết mình cần nói cho hả, hay nói theo kiểu người bạn đời của Anh, nói cho tiêu sầu.

 

“Một mình con lếch thếch ra trại, cảm giác khó tả Ba Má ơi! Áo quần tơi tả, giữa ngã ba đường chờ xe đò lâu quá. Con đi bộ một đoạn đường dài lắm. May mắn, con gặp một bà cụ bán cơm tấm gần ga xe lửa. Bà thoáng nhìn con là nói ngay: “ Anh là người tù được thả, phải không? Ngồi đây ăn một dĩa cơm tấm thịt trứng. Nhớ là ăn chầm chậm. Bà không lấy tiền, con cất tiền mua vé, tiền ăn dọc đường nhen con.” Đến lúc con ăn xong thì bà gọi thằng cháu chở con ra trạm xe lửa bằng chiếc xe đạp cũ kỹ rồi dặn dò: “Con không thể mua vé được đâu, vé chợ đen mắc hơn số tiền trại tù đưa con thì còn tiền đâu nữa trong khi đường về nhà Sài Gòn còn xa lắm nên cứ nhảy đại lên toa gần cuối nơi có nhà bếp rồi từ từ năn nỉ họ nếu bị soát vé.” Đúng như bà cụ bán cơm tấm dự liệu, con bị người soát vé kiểm tra và đương nhiên con không có vé tàu. Nhưng có lẽ người soát vé nhìn con gầy quá nên không nỡ đuổi xuống tàu. Ông ta cho con đứng giữa những thanh sắt nối tiếp các toa tàu. Cũng may gió không hất con rơi rụng vì con quá ốm. Cám ơn gió. Cám ơn Trời.”

 

Một vài tiếng thở dài đâu đó nhưng vẫn không ai lên tiếng. Bất chợt Anh bật khóc rưng rức:

 

“Ba Má có biết không, con tiếc quá, sao lúc đó không cho thằng bé tiền, rồi sao không hỏi địa chỉ và tên tuổi để sau này ghé thăm và đền ơn hai bà cháu? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập bây giờ thì cũng đã muộn rồi. Tình người để lại ấm trái tim con. Hôm nay con nhắc, con nhớ ơn bà bán cơm tấm và cháu trai bé nhỏ của bà. Con đã nợ ân tình của hai bà cháu mà kiếp này chưa trả được. Rồi con tự hỏi lúc đó sao thằng bé có thể chở được một người tù trên chiếc xe đạp ọp ẹp qua những đoạn đường khúc khuỷu? À, con nhớ ra rồi, thì ra số cân nặng của người tù lúc đó nhẹ hơn số cân của thằng bé.”

 

Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn. Phải say cùng tháng Tư thôi.

Châu Hà

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.