Hôm nay,  

Say Cùng Tháng Tư

24/04/202516:00:00(Xem: 1399)
Nơi gac vang
Tranh minh họa: Huỳnh Lê Nhật Tấn

  

 

Dễ cũng vài mươi năm nay, cứ vào tháng Tư bất kể ngày nào, miễn là ngày đó bạn bè có thể thu xếp được là phải hẹn gặp nhau. Buổi họp mặt Tháng Tư lặng lẽ hơn so với những buổi họp mặt khác. Vẫn tay bắt mặt mừng bạn cũ lâu ngày, đâu đó nếu nghe tiếng cười, có chăng là gượng gạo.

 

Trong bữa cơm chiều hôm đó cùng nhóm bạn thân, khoảng dăm cặp vợ chồng, trong số đó có một anh thuộc Quân chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Anh Không Quân nhắc về một ngày tháng Tư 1975 khi anh đang điều khiển chiếc trực thăng trên vùng trời miền Trung, nghe tin vị Tổng Thống cuối cùng của miền Nam đầu hàng, anh bèn bay ra biển Đông tìm đường thoát thân.

 

Trong nhóm bạn bè có người hỏi:

 

“Lúc đó vợ con anh ở đâu?”

 

“Tôi chưa có người yêu nói chi đến vợ.”

 

 “Rồi anh cùng trực thăng bay đi đâu?” 

 

“Tôi bay ra biển, trực thăng báo hiệu hết xăng. May quá tôi gặp một con tàu, tôi báo tín hiệu xin đáp xuống và họ đồng ý. Khi trực thăng của tôi vừa đáp xuống, viên chỉ huy tàu ra lệnh cho các thủy thủ đem sơn xịt trắng hết chiếc trực thăng của tôi. Tôi bậm môi ứa nước mắt vì biết rằng thế là mất tất cả.”

 

“Anh có nghĩ về gia đình của mình lúc đó?”

 

“Tía Má và anh em tôi ở bên bờ kênh Cái Sắn, tỉnh Cà Mau. Tôi biết gia đình mình ở gần bà con ruột thịt nên tôi an tâm. Nhưng về phần gia đình của tôi thì trái lại, họ lo lắng chờ mong tin tôi sau nhiều năm bặt tin.”

 

Anh kể tiếp:

 

“Tía Má tôi tìm đến một ông thầy bói hàng xóm xem quẻ hy vọng tôi vẫn còn sống sót đâu đó mà trở về. Nhưng hy vọng đã tan vào mây mờ và khói nhang che phủ căn nhà của Tía Má vì ông thầy bói phán một câu chắc nịch: “Chết rồi!” Má tôi khóc nhiều nhất sau khi xem bói về. Kể từ đó, Tía Má tôi cho phóng to tấm hình chân dung của tôi để đặt lên bàn thờ, chọn ngày giỗ của tôi là ngày ba mươi tháng Tư hàng năm.”

 

“Nhưng rồi câu chuyện đến lúc nào mới có hồi kết?”

 

“Sau 12 năm, một khoảng thời gian đủ dài, chú Hai, thầy giáo làng và là hàng xóm kế bên nhà Tía Má tôi, từng có con trai theo anh em bạn vượt biển tìm tự do và bị mất tích, là người biết tôi còn sống. Ngày nào chú Hai cũng đạp xe ra bưu điện xã để lục lọi thùng rác bưu điện với mong mỏi biết đâu một ngày nào đó nhận được thư từ con trai của chú để biết rằng nó còn sống. (Bưu điện xã thực chất chỉ là cái chòi lá bỏ hoang của bà Tám. Cán bộ không ưa những nhà dân có liên hệ đến chế độ cũ nên các thư gửi về từ nước ngoài thường bị ngấm ngầm xé bỏ). Một hôm, tình cờ chú Hai lục thùng rác thấy một cái phong bì lớn màu hồng chưa bị xé rách. Tên người nhận là Tía Má tôi và tôi là người gửi cái thiệp đó. Nhìn tên tôi là chú Hai nhớ ngay ra đứa nhỏ hằng ngày được chú Hai chở quá giang trên chiếc xe đạp để đến trường.”

 

“Nhưng có gì trong thư đó?”

 

“Từ từ để tôi kể đầu đuôi. Chú Hai đạp chiếc xe cọc cạch về xóm, mừng vui hét to cho cả làng rằng tôi vẫn còn sống. Kéo dài sự háo hức của mọi người, chú Hai còn kể dài giòng: “Tui nhìn vô thùng rác thấy có một phong bì lớn màu hồng đẹp lắm, may mắn phong bì này còn nguyên không bị xé. Nhìn rõ ràng địa chỉ nhà hàng xóm ngay cạnh nhà của tui, tên người gửi là tên của thằng học trò của tui xa xưa nè. Ngày xưa Tía Má nó không cho nó đi học, lý do là Tía Má nó nói nhà cửa ruộng lúa của họ mênh mông ngút ngàn…ăn và sống cho đến đời con cháu của họ cũng chưa hết nên muốn thằng nhỏ ở nhà giúp làm ruộng rẫy. Tui thấy mặt mũi nó sáng sủa nên tình nguyện chở nó đi học mỗi ngày.” Chú Hai kể dứt lời thì chiếc phong bì được mở ra, trong đó có một thiệp cưới màu hồng báo tin tôi lập gia đình. Cả làng chuyền tay nhau xem thiệp và cười vui chúc mừng.”

 

Kể đến đây giọng anh bạn hơi nghèn nghẹn:

 

“Nhớ ngày còn nhỏ tôi được ngồi trên chiếc xe đạp của chú Hai. Cũng nhờ chú khích lệ việc học nên tôi còn ra đến tỉnh học thi Tú Tài và sau đó được tuyển vào Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Tôi biết ơn Chú Hai vì nhờ ông mà tôi được đi học để mở mang kiến thức mà cũng do ông nên gia đình biết tôi còn sống.”

 

“Vậy chớ anh có giận ông thầy bói không?”

 

“Cớ gì mà giận? Ngay lúc biết được tin tôi còn sống, có người la lớn: “Qua nhà ông thầy bói quở ổng bói sai rồi.” Rồi cả xóm ổn ào, người thì đòi ông thầy bói trả lại tiền xem bói, người thì nói thôi bỏ qua vì không ai chết là vui rồi. Thế rồi ngày hôm sau ông thầy bói qua nhà Tía Má tôi nói lời xin lỗi và giúp hạ tấm hình của tôi trên bàn thờ xuống, hứa sẽ giải nghệ không làm nghề thầy bói nữa. Nghe đâu sau này ổng bỏ xứ đi chỗ khác. Tôi tiếc là không gặp được ổng.”

 

“Trời, tiếc chi nữa anh?”

 

Anh bạn cười ha hả:

 

“Để bắt tay ông thầy bói rồi nói với ổng một câu là: “Nhờ Thầy mà cứ đến “Ngày Tui Chết” thì cả xóm của Tía Má tui được ăn Gà Khoả Thân”.

 

Bạn hữu sum họp cùng nhau để sống lại những kỷ niệm, chuyện cũ ôn đi ôn lại nói hoài mà vẫn tưởng là chuyện chưa kể trong khi chuyện mới thì hiếm được nghe. Năm nay, mọi người tề tựu tại nhà Anh. Chị thì thầm bên tai nhắc Anh uống chừng mực, Anh càng lầm lì rót thêm. Rượu vào mềm môi, tê đầu lưỡi, khiến Anh đang cảm giác mình ở nơi xa xăm lắm, giọng nói trở nên chơi vơi. Câu chuyện về cái bàn thờ của anh bạn Không Quân khiến Anh chạnh lòng nhìn lên bàn thờ có hình cha mẹ mình. Quên hẳn mình đang ngồi bên đám bạn hữu, Anh khề khà:

 

“Ba Má à, giờ con gần tám chục tuổi rồi…Con nhớ …ngày mới lớn …con mê chơi quá, lười học theo đám bạn lêu lổng phá làng, phá xóm … “cúp cua” không đi học, đàn đúm bạn bè vào rạp hát xem phim, không chịu vào trường học …Má gửi con lên Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng ở cùng gia đình anh chị Ba. Anh Ba là con rể của Má đó, Má nhớ không?”

 

Trên bàn thờ, tấm hình Má vẫn cười tươi nhìn thằng con “bất trị” ngày trước. Chuếnh choáng, Anh xưng Tui với Má:

 

“Má nhớ không, lúc đó anh Ba con rể của Má làm chức lớn gì đó trong tỉnh. Ảnh có một cái xe máy loại giành riêng cho cấp Tỉnh …Tui bèn “mượn tạm” xe đó chạy khắp nơi … Hôm sau anh Ba bị cấp trên khiển trách …Rồi Má lại phải xe đò lặn lội lên Bảo Lộc, Lâm Đồng rước tui về, vì Anh Chị Ba sợ trách nhiệm do Má giao không hoàn thành, vì tui trốn học hoài…Nghĩ lại tui thương Má quá, Má ơi! May quá, khi về Sài Gòn, tui thi đậu Đệ Thất (là lớp Sáu bây giờ), Má mừng quá chừng, tui lo học hành trong ngôi trường lớn nơi mà kỷ luật đâu vào đó. Rồi tui thi đậu Tú Tài khi chiến tranh tràn lan khắp nước. Tui khoái màu áo rằn ri nên xung phong đi lính luôn.”

 

Bạn bè yên lặng rót rượu mời nhau. Họ tôn trọng những phút giây Anh thì thầm độc thoại: “Ba Má à, Tháng Tư 1975 “bên thắng cuộc” không cùng chiến tuyến chiến tuyến với con đã buộc con cũng như các quân nhân của nhiều binh chủng khác vào nơi rừng thiêng nước độc để “tập trung cải tạo”. Con tơi tả xác thân. Sau tám năm tù đày, trong trại tù bắt đầu xôn xao nghe tin một số người “được thả”, được “tha về” nhưng tên con thì không được gọi. Con biết một số bạn tù được tập trung nơi cái chòi riêng, được ăn uống đầy đủ hơn một chút, được sự chuẩn bị tinh thần, thư từ nhắn gia đình đến đón về…Riêng con, vẫn hàng ngày vác cái cuốc xẻng, vẫn đói, vẫn xác xơ lao động. Rồi cái ngày lạ lùng đó đến khiến con nhớ mãi. Hôm ấy con chuẩn bị vào rừng sâu lao khổ, một tên cán bộ coi tù đến trước mặt:

 

“ Lên văn phòng gặp tôi.”

 

Con tự hỏi chúng lại tìm lý do nào đó để hành hạ mình nữa đây, chắc chúng lại nhốt con trong CONEX thôi.

 

“Ngồi xuống đi!”

 

Tên cán bộ hất hàm. Con ngồi bình tĩnh chờ việc gì sẽ xảy ra với mình. Hắn nhìn con chằm chằm vài giây  rồi nói cộc cằn:

 

“Được thả, lý do sơ sót tên. Anh về lán gom đồ đạc rồi ra đây gặp lại.”

 

Có phần ngỡ ngàng, con không tin vào điều vừa nghe. Quay bước về lán trại gần mà tưởng như xa tít tắp, con gom mớ vật dụng cá nhân ít ỏi của mình đem phân phát lại cho vài bạn tù thân thiết còn lại.

 

Miệng khô khát, Anh nhếch cười gằn giọng:

 

“Ba Má có biết không, gia tài duy nhất của con là Giấy Được Tha và tờ tiền một trăm đồng thời đó.”

 

Trí nhớ Anh dường như chứa cả một kho ký ức nhưng sao kể lại thì khó khăn quá. Chẳng phải vì Anh say. Chẳng phải vì Anh líu lưỡi do men cay. Có lẽ tâm tư về những năm tháng ấy trĩu nặng. Dù gì Anh cũng phải nói ra cho vơi buồn dẫu người nghe ở tận nghìn trùng hay cận kề. Anh chỉ biết mình cần nói cho hả, hay nói theo kiểu người bạn đời của Anh, nói cho tiêu sầu.

 

“Một mình con lếch thếch ra trại, cảm giác khó tả Ba Má ơi! Áo quần tơi tả, giữa ngã ba đường chờ xe đò lâu quá. Con đi bộ một đoạn đường dài lắm. May mắn, con gặp một bà cụ bán cơm tấm gần ga xe lửa. Bà thoáng nhìn con là nói ngay: “ Anh là người tù được thả, phải không? Ngồi đây ăn một dĩa cơm tấm thịt trứng. Nhớ là ăn chầm chậm. Bà không lấy tiền, con cất tiền mua vé, tiền ăn dọc đường nhen con.” Đến lúc con ăn xong thì bà gọi thằng cháu chở con ra trạm xe lửa bằng chiếc xe đạp cũ kỹ rồi dặn dò: “Con không thể mua vé được đâu, vé chợ đen mắc hơn số tiền trại tù đưa con thì còn tiền đâu nữa trong khi đường về nhà Sài Gòn còn xa lắm nên cứ nhảy đại lên toa gần cuối nơi có nhà bếp rồi từ từ năn nỉ họ nếu bị soát vé.” Đúng như bà cụ bán cơm tấm dự liệu, con bị người soát vé kiểm tra và đương nhiên con không có vé tàu. Nhưng có lẽ người soát vé nhìn con gầy quá nên không nỡ đuổi xuống tàu. Ông ta cho con đứng giữa những thanh sắt nối tiếp các toa tàu. Cũng may gió không hất con rơi rụng vì con quá ốm. Cám ơn gió. Cám ơn Trời.”

 

Một vài tiếng thở dài đâu đó nhưng vẫn không ai lên tiếng. Bất chợt Anh bật khóc rưng rức:

 

“Ba Má có biết không, con tiếc quá, sao lúc đó không cho thằng bé tiền, rồi sao không hỏi địa chỉ và tên tuổi để sau này ghé thăm và đền ơn hai bà cháu? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập bây giờ thì cũng đã muộn rồi. Tình người để lại ấm trái tim con. Hôm nay con nhắc, con nhớ ơn bà bán cơm tấm và cháu trai bé nhỏ của bà. Con đã nợ ân tình của hai bà cháu mà kiếp này chưa trả được. Rồi con tự hỏi lúc đó sao thằng bé có thể chở được một người tù trên chiếc xe đạp ọp ẹp qua những đoạn đường khúc khuỷu? À, con nhớ ra rồi, thì ra số cân nặng của người tù lúc đó nhẹ hơn số cân của thằng bé.”

 

Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn. Phải say cùng tháng Tư thôi.

Châu Hà

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hồi năm sáu tuổi tôi vẫn hay theo chúng bạn ra chơi trước đình làng Thanh Thủy. Nơi đó có mấy cây sanh cổ thụ rất lớn luôn tỏa bóng râm mát mẻ cả đoạn đường bến chạy qua làng. Bên kia con đường bến là hồ Vọng Nguyệt, một cái hồ trông như vuông vức, rộng chừng nửa mẫu tây, dân địa phương vẫn quen gọi là hồ làng...
Phải chi khách đến thăm vườn hồng hơn trăm giống quý đủ màu sắc của ông Chu hằng ngày là khách mua hoa thì chắc thu nhập của gia đình ông đỡ hơn. Ông nghèo, nhưng cái máu nghệ sĩ của ông lại mạnh mẽ hơn chuyện tiền bạc, lại gặp bà vợ hết mực chiều chồng, nên cứ nghe đâu có giống hồng lạ là bằng mọi cách phải có cho bằng được. Năm ba ký gạo đắp đổi hằng ngày đã khó, mà có những giống người ta đổi cả tấn lúa ông cũng lắc đầu.
Không nhớ từ bao giờ đã không còn ngồi xuống bàn trà, tay bốc miếng mứt hạt sen bỏ vô miệng, vị ngọt tươm ra không quá gắt như ăn miếng mứt bí, vị ngọt nhẹ, thanh, kích thích vị giác bởi hương sen quyện ngọt điệu đà, tới khi nhai cái hạt sen đã ấm ấm trong miệng nên không còn cứng cũng không quá mềm như khoai lang luộc. Độ dẻo của hạt sen khi đã sên mứt rất mê hoặc và cũng đâu có gì vội để nuốt đi cho mau, cứ ngậm mà nghe hương vị đất trời tinh khiết của hương sen xông lên khoang mũi làm cho người thưởng thức lâng lâng cảm giác xuân đã về. Có thể nói món gì có hạt sen góp mặt cũng ngon như món vịt tiềm có nhân bên trong là thịt bằm, nấm mèo, táo tàu, gia vị nhiều thứ, nhưng những hạt sen luôn khêu gợi những đôi đũa gắp vì hấp dẫn và ngon lạ miệng. Nhưng đã nhiều năm không ăn mứt hạt sen sao vẫn nhớ khá rõ hương vị độc đáo của hạt sen trong món ngọt ăn chơi ngày tết, hay món mặn ăn tiệc đều ngon.
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.