Hôm nay,  

Hơn 100 Năm Nuôi Dưỡng Trẻ Em: Lịch Sử Suất Ăn Học Đường tại Mỹ Đã Thay Đổi Ra Sao?

16/05/202500:00:00(Xem: 625)

nuoi duong tre em
Trẻ em Philadelphia dùng bữa tối "ba xu" tại trường, ảnh đăng trong cuốn School Feeding: Its History and Practice at Home and Abroad xuất bản năm 1913 – Viện Lịch sử Khoa học.
 
[Một cuộc triển lãm mới tại Philadelphia khám phá cách khoa học dinh dưỡng, tiến bộ công nghệ và những cuộc tranh luận chính trị đã góp phần định hình thực đơn của học sinh tại căng-tin nhà trường]

Một cuộc triển lãm mới tại thành phố Philadelphia soi chiếu hành trình tiến hoá của sức khoẻ dinh dưỡng tại Hoa Kỳ qua một lăng kính độc đáo: căng-tin học đường.

Mang tựa đề “Giờ Ăn Trưa: Lịch Sử Khoa Học Trên Khay Thức Ăn Học Đường,” cuộc triển lãm miễn phí tại Viện Lịch sử Khoa học Philadelphia trưng bày các bích chương, tài liệu, dụng cụ khoa học, sách dinh dưỡng và ảnh chụp để thuật lại câu chuyện về các bữa ăn tại trường học ở Mỹ.

“Lịch sử các bữa ăn học đường là một lịch sử đầy tranh cãi,” ông Jesse Smith, giám đốc phụ trách công tác giám tuyển tại Viện, chia sẻ với đài phát thanh WHYY. “Người ta luôn tranh luận về chuyện ăn uống tại trường – và điều đó vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay.”

Triển lãm mở đầu từ thế kỷ 19, khi cuộc Cách mạng Công nghiệp khiến người dân Mỹ sống gần thành thị và xa dần những nông trại nơi cung cấp thực phẩm. Theo bài viết của Shannon Eblen trên New York Times, các nhà sản xuất lương thực khi ấy đã dùng nhiều thủ đoạn để cắt giảm chi phí, như “trộn mạt cưa vào quế và phấn vào bột mì.”

“Có lẽ ví dụ tai tiếng nhất là ngành sữa – thường xuyên pha chất formaldehyde vào sữa để giữ cho sữa khỏi hư,” ông Alex Asal, một giáo dục viên tại Viện, nói với tạp chí Times.

Các cuộc kiểm tra y tế cho thấy học sinh thường bị suy dinh dưỡng. Nhiều em mắc bệnh thiếu vitamin như bệnh còi xương. Giới chức bắt đầu chú ý. Philadelphia và Boston là hai trong những thành phố đầu tiên, vào năm 1894, cung cấp bữa ăn cho học sinh trường công. Theo lời viện bảo tàng, triển lãm hiện trưng bày một thẻ nhôm nhỏ từ năm 1909, từng được một học sinh Philadelphia dùng để mua “bữa trưa một xu.”

Trong khi ấy, một ghi chép năm 1910 của Trường Sư phạm Đại học Columbia cho biết học sinh thời đó dùng bữa với xúc xích kẹp bánh mì, chuối và cam thảo, bánh mì phô-mai Thụy Sĩ và bánh kem phủ đường.

“Chúng tôi muốn làm nổi bật những bữa ăn mà học sinh thời ấy có thể đã ăn,” ông Smith chia sẻ. “Ngày nay, chúng ta nghĩ tới những món điển hình như cá tẩm bột chiên hay thịt bò Salisbury – nhưng trước kia, có thể là món pa-tê gan hay cơm phô-mai đút lò.”

bang ghi chep
Bản ghi chép hàng tuần về các bữa ăn học đường – Viện Lịch sử Khoa học.
Triển lãm cũng khảo sát cách mà các bước tiến bộ trong khoa học thực phẩm và can thiệp của chính phủ đã ảnh hưởng tới món ăn tại căng-tin. Ví dụ, hạt giống cải tiến và phân bón giúp tăng sản lượng lương thực – chính phủ đã phân phối phần lương thực dư thừa này cho các trường, “đôi khi hy sinh yếu tố dinh dưỡng,” trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. Cơ quan WPA cũng thuê người làm và phục vụ bữa ăn tại các trường trên toàn quốc.


Trước và trong Thế chiến II, các nghiên cứu về dinh dưỡng của quân đội đã củng cố sự ủng hộ cho việc trợ cấp bữa ăn học đường. Cùng thời gian đó, Cơ quan Thực phẩm Chiến tranh phát hành bích chương cổ động bữa ăn lành mạnh. Một tấm năm 1944 ghi: “Mỗi trẻ đều cần một bữa ăn trưa tốt tại trường. Cơ quan Thực phẩm Chiến tranh sẽ giúp cộng đồng quý vị khởi động chương trình này.” Năm 1946, Tổng thống Harry Truman ký Đạo luật Bữa ăn Trưa Quốc gia, thiết lập chương trình bữa ăn học đường cấp quốc gia.

every-child-needs-good-school-lunch-gallery-1157x1536
Bích chương cổ động bữa ăn lành mạnh. Một tấm năm 1944 ghi: “Mỗi trẻ đều cần một bữa ăn trưa tốt tại trường
“Chương trình này là chương trình sức khỏe trẻ em lâu đời nhất tại Hoa Kỳ và có ảnh hưởng to lớn đến tình trạng dinh dưỡng,” ông Andrew R. Ruis – tác giả sách Ăn Để Học, Học Để Ăn: Khởi Nguyên của Bữa Ăn Học Đường tại Hoa Kỳ – cho biết. “Nghiên cứu những năm 1920–30 cho thấy chương trình có tác động lớn đến sức khoẻ, học lực và thái độ học sinh.” Dù vậy, đến cuối thập niên 1950, chưa đến một phần ba học sinh Mỹ được ăn tại trường.

Trong thế kỷ 20, hướng dẫn dinh dưỡng không ngừng thay đổi. Năm 1916, Bộ Nông nghiệp khuyên trẻ từ 3 đến 6 tuổi nên ăn “một miếng sườn cừu, rau bina băm, cơm với sữa và đường, bánh mì phết bơ và khoai tây nướng.”

Đến năm 1973, một trò chơi mang tên “Siêu Bánh Mì” ra đời, giúp trẻ học về khẩu phần chất đạm, canxi, sắt, vitamin A, nhóm B và C. Khoảng mười năm sau, các cắt giảm ngân sách dưới thời Reagan khơi lên tranh luận: liệu tương cà và dưa chua có được tính là rau?

“Mỗi lần kể về triển lãm này, ai cũng nhắc đến tương cà,” ông Smith nói. “Đó có vẻ là chi tiết mà người ta nhớ rõ nhất khi nói về bữa ăn học đường.”

“Giờ Ăn Trưa” cũng phản ánh sự gia tăng của thực phẩm đông lạnh và đóng gói sẵn trong những thập niên gần đây. Trước thực trạng đó, nhiều người đã vận động cho việc đưa thêm rau quả tươi vào khẩu phần. Nhưng với nhiều trường, việc phục vụ bữa ăn lành mạnh vẫn là thách thức. Times ghi nhận, giá bữa trưa trung bình hiện chỉ khoảng 3 đô-la.

“Rất nhiều điều đã thay đổi – tiêu chuẩn đổi thay, định nghĩa món lành mạnh cũng thay – nhưng một điều không đổi là: cho trẻ ăn uống đầy đủ vẫn luôn quan trọng,” bà Elizabeth Keegan, điều phối viên dịch vụ dinh dưỡng của Học khu Philadelphia, chia sẻ với Times.

Triển lãm “Giờ Ăn Trưa: Lịch Sử Khoa Học Trên Khay Thức Ăn Học Đường” mở cửa tại Viện Lịch sử Khoa học Philadelphia từ nay đến tháng Giêng năm 2026.

Cung Đô sưu tầm
Nguồn:  Bài “American Schools Have Been Feeding Children for More Than 100 Years. Here’s How the School Lunch Has Changed” của Sonja Anderson đăng trên tạp chí Smithsonian. 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.