Hôm nay,  

Hơn 100 Năm Nuôi Dưỡng Trẻ Em: Lịch Sử Suất Ăn Học Đường tại Mỹ Đã Thay Đổi Ra Sao?

16/05/202500:00:00(Xem: 627)

nuoi duong tre em
Trẻ em Philadelphia dùng bữa tối "ba xu" tại trường, ảnh đăng trong cuốn School Feeding: Its History and Practice at Home and Abroad xuất bản năm 1913 – Viện Lịch sử Khoa học.
 
[Một cuộc triển lãm mới tại Philadelphia khám phá cách khoa học dinh dưỡng, tiến bộ công nghệ và những cuộc tranh luận chính trị đã góp phần định hình thực đơn của học sinh tại căng-tin nhà trường]

Một cuộc triển lãm mới tại thành phố Philadelphia soi chiếu hành trình tiến hoá của sức khoẻ dinh dưỡng tại Hoa Kỳ qua một lăng kính độc đáo: căng-tin học đường.

Mang tựa đề “Giờ Ăn Trưa: Lịch Sử Khoa Học Trên Khay Thức Ăn Học Đường,” cuộc triển lãm miễn phí tại Viện Lịch sử Khoa học Philadelphia trưng bày các bích chương, tài liệu, dụng cụ khoa học, sách dinh dưỡng và ảnh chụp để thuật lại câu chuyện về các bữa ăn tại trường học ở Mỹ.

“Lịch sử các bữa ăn học đường là một lịch sử đầy tranh cãi,” ông Jesse Smith, giám đốc phụ trách công tác giám tuyển tại Viện, chia sẻ với đài phát thanh WHYY. “Người ta luôn tranh luận về chuyện ăn uống tại trường – và điều đó vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay.”

Triển lãm mở đầu từ thế kỷ 19, khi cuộc Cách mạng Công nghiệp khiến người dân Mỹ sống gần thành thị và xa dần những nông trại nơi cung cấp thực phẩm. Theo bài viết của Shannon Eblen trên New York Times, các nhà sản xuất lương thực khi ấy đã dùng nhiều thủ đoạn để cắt giảm chi phí, như “trộn mạt cưa vào quế và phấn vào bột mì.”

“Có lẽ ví dụ tai tiếng nhất là ngành sữa – thường xuyên pha chất formaldehyde vào sữa để giữ cho sữa khỏi hư,” ông Alex Asal, một giáo dục viên tại Viện, nói với tạp chí Times.

Các cuộc kiểm tra y tế cho thấy học sinh thường bị suy dinh dưỡng. Nhiều em mắc bệnh thiếu vitamin như bệnh còi xương. Giới chức bắt đầu chú ý. Philadelphia và Boston là hai trong những thành phố đầu tiên, vào năm 1894, cung cấp bữa ăn cho học sinh trường công. Theo lời viện bảo tàng, triển lãm hiện trưng bày một thẻ nhôm nhỏ từ năm 1909, từng được một học sinh Philadelphia dùng để mua “bữa trưa một xu.”

Trong khi ấy, một ghi chép năm 1910 của Trường Sư phạm Đại học Columbia cho biết học sinh thời đó dùng bữa với xúc xích kẹp bánh mì, chuối và cam thảo, bánh mì phô-mai Thụy Sĩ và bánh kem phủ đường.

“Chúng tôi muốn làm nổi bật những bữa ăn mà học sinh thời ấy có thể đã ăn,” ông Smith chia sẻ. “Ngày nay, chúng ta nghĩ tới những món điển hình như cá tẩm bột chiên hay thịt bò Salisbury – nhưng trước kia, có thể là món pa-tê gan hay cơm phô-mai đút lò.”

bang ghi chep
Bản ghi chép hàng tuần về các bữa ăn học đường – Viện Lịch sử Khoa học.
Triển lãm cũng khảo sát cách mà các bước tiến bộ trong khoa học thực phẩm và can thiệp của chính phủ đã ảnh hưởng tới món ăn tại căng-tin. Ví dụ, hạt giống cải tiến và phân bón giúp tăng sản lượng lương thực – chính phủ đã phân phối phần lương thực dư thừa này cho các trường, “đôi khi hy sinh yếu tố dinh dưỡng,” trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. Cơ quan WPA cũng thuê người làm và phục vụ bữa ăn tại các trường trên toàn quốc.


Trước và trong Thế chiến II, các nghiên cứu về dinh dưỡng của quân đội đã củng cố sự ủng hộ cho việc trợ cấp bữa ăn học đường. Cùng thời gian đó, Cơ quan Thực phẩm Chiến tranh phát hành bích chương cổ động bữa ăn lành mạnh. Một tấm năm 1944 ghi: “Mỗi trẻ đều cần một bữa ăn trưa tốt tại trường. Cơ quan Thực phẩm Chiến tranh sẽ giúp cộng đồng quý vị khởi động chương trình này.” Năm 1946, Tổng thống Harry Truman ký Đạo luật Bữa ăn Trưa Quốc gia, thiết lập chương trình bữa ăn học đường cấp quốc gia.

every-child-needs-good-school-lunch-gallery-1157x1536
Bích chương cổ động bữa ăn lành mạnh. Một tấm năm 1944 ghi: “Mỗi trẻ đều cần một bữa ăn trưa tốt tại trường
“Chương trình này là chương trình sức khỏe trẻ em lâu đời nhất tại Hoa Kỳ và có ảnh hưởng to lớn đến tình trạng dinh dưỡng,” ông Andrew R. Ruis – tác giả sách Ăn Để Học, Học Để Ăn: Khởi Nguyên của Bữa Ăn Học Đường tại Hoa Kỳ – cho biết. “Nghiên cứu những năm 1920–30 cho thấy chương trình có tác động lớn đến sức khoẻ, học lực và thái độ học sinh.” Dù vậy, đến cuối thập niên 1950, chưa đến một phần ba học sinh Mỹ được ăn tại trường.

Trong thế kỷ 20, hướng dẫn dinh dưỡng không ngừng thay đổi. Năm 1916, Bộ Nông nghiệp khuyên trẻ từ 3 đến 6 tuổi nên ăn “một miếng sườn cừu, rau bina băm, cơm với sữa và đường, bánh mì phết bơ và khoai tây nướng.”

Đến năm 1973, một trò chơi mang tên “Siêu Bánh Mì” ra đời, giúp trẻ học về khẩu phần chất đạm, canxi, sắt, vitamin A, nhóm B và C. Khoảng mười năm sau, các cắt giảm ngân sách dưới thời Reagan khơi lên tranh luận: liệu tương cà và dưa chua có được tính là rau?

“Mỗi lần kể về triển lãm này, ai cũng nhắc đến tương cà,” ông Smith nói. “Đó có vẻ là chi tiết mà người ta nhớ rõ nhất khi nói về bữa ăn học đường.”

“Giờ Ăn Trưa” cũng phản ánh sự gia tăng của thực phẩm đông lạnh và đóng gói sẵn trong những thập niên gần đây. Trước thực trạng đó, nhiều người đã vận động cho việc đưa thêm rau quả tươi vào khẩu phần. Nhưng với nhiều trường, việc phục vụ bữa ăn lành mạnh vẫn là thách thức. Times ghi nhận, giá bữa trưa trung bình hiện chỉ khoảng 3 đô-la.

“Rất nhiều điều đã thay đổi – tiêu chuẩn đổi thay, định nghĩa món lành mạnh cũng thay – nhưng một điều không đổi là: cho trẻ ăn uống đầy đủ vẫn luôn quan trọng,” bà Elizabeth Keegan, điều phối viên dịch vụ dinh dưỡng của Học khu Philadelphia, chia sẻ với Times.

Triển lãm “Giờ Ăn Trưa: Lịch Sử Khoa Học Trên Khay Thức Ăn Học Đường” mở cửa tại Viện Lịch sử Khoa học Philadelphia từ nay đến tháng Giêng năm 2026.

Cung Đô sưu tầm
Nguồn:  Bài “American Schools Have Been Feeding Children for More Than 100 Years. Here’s How the School Lunch Has Changed” của Sonja Anderson đăng trên tạp chí Smithsonian. 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
"Tự do tư tưởng và tìm kiếm sự thật, cùng với sự cam kết lâu đời của chính phủ trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền này, đã giúp các trường đại học đóng góp một cách thiết yếu cho xã hội tự do và cuộc sống lành mạnh, thịnh vượng hơn cho mọi người ở khắp các mọi nơi. Tất cả chúng ta đều có chung lợi ích trong việc bảo vệ sự tự do đó. Như lệ thường, chúng ta tiến bước lúc này với niềm tin rằng việc theo đuổi chân lý can đảm và không bị ràng buộc sẽ giải phóng nhân loại, và với niềm tin vào lời cam kết bền bỉ mà các trường cao đẳng và đại học của Hoa Kỳ đã gìn giữ cho quốc gia và thế giới của chúng ta."
Phải làm gì với một Tổng thống Hoa Kỳ không tôn trọng luật pháp của chính quốc gia mình? Vấn đề này nổi lên sau vụ việc chính quyền Trump phớt lờ phán quyết của tòa án liên bang, vẫn để các chuyến bay trục xuất người Venezuela khởi hành đến El Salvador dù tòa đã ra lệnh đình chỉ toàn bộ các chuyến bay đó. Hành động này cho thấy sự thách thức công khai đối với quyền lực tư pháp, và phản ánh sự thiếu hiểu biết (hoặc cố tình phớt lờ) nguyên tắc tam quyền phân lập, vốn là nền tảng của thể chế Hoa Kỳ. Theo Hiến pháp, một tổng thống không có quyền bác bỏ hay phớt lờ phán quyết của tòa án.
Lệnh hành pháp khi được công bố luôn tạo nhiều dư luận trái chiều. Lệnh càng ảnh hưởng nhiều người thì tranh cãi càng kéo dài. Gần đây trong một buổi họp mặt, một người bạn của tôi thốt tiếng than: “Chẳng hiểu thành viên Quốc hội Mỹ của cả hai đảng bây giờ làm gì mà cứ im lìm để tổng thống muốn ra lệnh gì thì ra”. Người khác thắc mắc, nếu tổng thống dùng lệnh hành pháp để đưa ra những quyết định không đúng luật, hay trái với hiến pháp, thì cơ quan nào sẽ có trách nhiệm can thiệp? Bài viết này không phân tích một lệnh hành pháp cụ thể nào, mà chỉ nhằm giải thích cách vận hành của Executive Order, quy trình thách thức nếu cần, cũng như những giới hạn của một mệnh lệnh do tổng thống ban hành.
Medicaid đang trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của chính quyền Trump trong chiến dịch cắt giảm ngân sách liên bang. Là chương trình bảo hiểm y tế do liên bang và tiểu bang phối hợp thực hiện, Medicaid cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho hơn 72 triệu người dân Hoa Kỳ, bao gồm những người có thu nhập thấp, trẻ em và người tàn tật. Ngoài ra, Medicaid cũng góp phần hỗ trợ chi phí chăm sóc lâu dài cho người cao niên.
Gần đây, nhiều hình ảnh và video lan truyền trên mạng xã hội đã khiến dư luận quốc tế kinh hoàng: hàng loạt sà lan quân sự khổng lồ của TQ – loại phương tiện chuyên dụng cho các chiến dịch đổ bộ từ đất liền ra biển – lần đầu tiên lộ diện. Ngay sau đó, vào ngày 1 tháng 4 năm 2025, Bắc Kinh tiến hành cuộc tập trận quân sự kéo dài hai ngày ở eo biển Đài Loan. Điều này càng làm dấy lên lo ngại: Liệu TQ có đang chuẩn bị một cuộc xâm lược kiểu D-Day vào Đài Loan?
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.