Lửa, Thấy Từ Stochkholm

6/20/202500:00:00(View: 1241)

Hình để Cường dùng cho web only với bài thơ


Thomas von Vegesack* quẹt diêm
Lửa bếp, Lửa đèn. Lửa lò sưởi
Ngọn nến bữa ăn chiều lung linh
Quặn lòng quê xa, bạn tù tội

Phương Đông: Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ
Quê ta, bao nhiêu ngũ hành sơn
Bếp ai tro lạnh chiều nay nữa
Lửa gì đâu. Lửa tủi, lửa hờn

Nâng ly rượu thơm, bọt dàn dụa
Tưởng thấy dòng thác xưa vật mình
Ghềnh đá trơ vơ sùi bọt nhớ
Thơ chết oan đầy của tử sinh

Nắm xương ai gửi rừng Xuyên Mộc**
Ngọn đèn nào leo lét gió mưa
Cơm kêu. Kẻng gõ. Miệng khô khốc
Con đóm đêm nao vẫn vật vờ

Bạn ta nữa. Chân núi Mây Tào***
Mười ba năm rừng sâu sức cạn
Chiều khổ sai, khoai sắn ra sao
Lửa nào giữ cho lòng đủ ấm

Tha lỗi nhé. Miếng ngon nuốt nghẹn
Vui riêng cứng lưỡi, thốt không đành
Cháy mãi cùng ta vậy, nghe nến
Ngọn lửa anh em ngày tái sinh.

Stockholm. 9.1988

*Thomas von Vegesack, nhà văn Thụy Điển, nguyên chủ tịch văn bút thế giới,
chủ tịch điều hành Ủy ban quốc tế các nhà văn vị cầm tù.

**Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn chết tại trại khổ sai Xuyên Mộc.
***Nhà văn Thảo Trường bị giam tại trại khổ sai Z30D, Hàm Tân.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Mời đọc ba bài thơ: 1. Thảnh Thơi Đường Ngộ của Hoàng Xuân Sơn. 2. Nhẫn Nại của Thy An. 3. Buổi Trưa Ấy của Trần Yên Hòa
Có ai lật dùm pho Sử Việt | 50 năm máu vẫn thấm từng trang | Có ai cầm khăn thấm hộ | 50 năm sao lệ vẫn chứa chan.
Em là con cá Hồi | mấy chục năm sống nhờ biển khác | suối nào đợi em về | cho em trầm mình gửi nắm xương da | ôi những con suối quê hương
Hãy sống thêm một ngày nữa / Tới trước cánh cửa em chưa bao giờ mở ra / Hãy đọc lời ai điếu trên mộ chúng ta / Hãy đi qua / Dòng sông mùa lũ / Đặt tâm hồn / Vào trong tay một người khác / Hãy bắt đầu / Ngồi xuống / Giữa kẻ thù / Hãy để mưa / Rơi trên nghĩa địa / Hãy để tự do làm thành trí nhớ / Của quê hương chúng ta, hãy để người thiếu nữ / Đã chết trở thành hoa, hãy bắt tay một người .
Tháng tư nắng quái trên tàng lá / Ngày nóng rang, khô khốc tiếng người / Nước mắt ướt đầm trên mắt mẹ / Nghìn đêm ai khóc nỗi đầy vơi? / Tháng tư em dắt con ra biển / Hướng về nam theo sóng nổi trôi / Thôi cũng đành, xuôi triều nước lớn / Làm sao biết được, trôi về đâu?
Em biết không, khi em chết trước. Giường ngủ sẽ chết theo. Toàn thể căn nhà đều bệnh nặng.
Dù đứng bên bờ vực của tận diệt, con người vẫn có thể cứu chuộc chính mình bằng ngôn từ và ký ức, đó là tinh thần của giải Nobel Văn Chương năm nay. Trong ánh sáng của niềm tin, Việt Báo đăng lại bài thơ “Hãy để nước Mỹ lại là nước Mỹ” của Langston Hughes – một khúc ca vừa đau đớn vừa thiết tha, viết gần một thế kỷ trước, mà như viết cho thời đại ngày nay. Giấc mơ Hughes gọi tên lại vang lên – giấc mơ về một xứ sở nơi lời hứa của nước Mỹ là hơi thở chung của những người cùng dựng lại niềm tin vào công lý, vào tự do, vào chính con người.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”. Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.
Qua khu rừng lau chiều rất ốm cọng dài ôm cọng ngắn hấp hiu làm sao ngắt được lùm hoa sóng níu ngọn thương thân bãi dập dìu
Cây xanh trên miễu đình | Hưởng bốn mùa cúng vái | Quỳ lạy những hình nhân | Thấm đẫm mùi nhang khói