Hôm nay,  

Bạn

07/09/202511:38:00(Xem: 3447)
bạn 1
Bạn trung học chụp chung với cô chủ nhiệm nhân dịp kỷ niệm 25 năm ra trường

Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết. Tại già đâm ra khó tính không thấy ai hạp? Hay tại già thích yên lặng, không muốn nói chuyện, chỉ muốn làm bạn với cây cỏ? Tôi lần mò quay lại với quá khứ, nhớ lại những người bạn xưa, để hy vọng tìm ra câu trả lời cho cảm giác lạc lõng với người thân quen trong hiện tại.

 

Người xưa có câu nói đại khái là muốn hiểu rõ một người chỉ cần nhìn xem bạn của người đó là ai, đủ để thấy bạn bè ảnh hưởng đến một đời người như thế nào. Bạn như bóng với hình, cùng ta đi qua những chặng đường đời. Bóng không phải lúc nào cũng giống hình, nhưng là sự biểu hiện của hình theo một góc nhìn nào đó. Quan niệm về bạn bè là của riêng từng người, nhưng cũng có một số điểm chung. Trong tiếng Việt, "bằng hữu" có nguồn gốc từ Hán Việt; trong đó "bằng" (朋) có nghĩa là bạn bè, và "hữu" (友) cũng có nghĩa là bạn bè. Chữ Bằng do hai chữ nguyệt ghép lại, chắc có ý nghĩa là hai người bạn thân giống như hai vầng trăng sáng. Trong tự điển Wikipedia, bạn là người quen biết, có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang hàng, hợp tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng, cùng hoạt động…

 

Như vậy, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất, bạn là người có chung với mình một điều gì. Từ lúc nhỏ, khi bắt đầu có ý thức về bản thân, người ta bắt đầu có bạn.

 

Đầu tiên là bạn hàng xóm, những người sống chung trong một con hẻm, một khu phố, một con đường. Tôi có những người bạn hàng xóm đúng nghĩa là “bạn tắm mưa” mỗi khi mùa hè Sài Gòn trút những cơn mưa lớn làm ngập con hẻm nghèo. Bạn hàng xóm của tôi khá gắn bó vì phải bảo vệ lẫn nhau. Nhà tôi ở gần cuối hẻm, có ba gia đình trí thức ở sát cạnh nhau, chung quanh là những gia đình lao động, cuối hẻm còn có dân du đãng thứ thiệt! Đám con nít ít học hay bắt nạt những thằng con nhà gia giáo. Mấy đứa chúng tôi kết bạn chơi bắn bi, đánh bông vụ, tạt lon… đồng thời hỗ trợ nhau mỗi khi đám hàng xóm bụi đời đến kiếm chuyện.

 

Những người bạn không ở gần nhà đầu tiên là bạn tiểu học, là những người có chung một mái trường, thầy cô giáo. Ở độ tuổi từ 6 đến 11, cái tôi thường chưa hình thành rõ rệt, cho nên tình bạn như tờ giấy trắng, theo cái kiểu mà nhà thơ Phạm Thiên Thư mô tả là “… như đi trên cát, bước nhẹ mà sâu, và cũng nhòa mau…” Tình cảm học trò tiểu học hồn nhiên, có phần ủy mị thái quá qua những trang lưu bút mỗi khi hè về; sau này lớn lên nghĩ lại xa nhau có ba tháng hè mà làm gì nhớ nhung đến thế! Tôi nhớ mình bắt đầu để ý đến một cô bạn gái đầu tiên là vào năm lớp Ba. Bạn này tên Mỹ Ngọc, dễ thương lắm. Vậy mà sang đến năm lớp Bốn là lại để ý đến một bạn gái khác rồi!  

 

Bạn trung học đối với tôi có ý nghĩa đặc biệt hơn, là nhóm bạn giữ liên lạc với nhau lâu nhất. Trung học có cấp hai (từ lớp Sáu đến lớp Chín) và cấp ba (lớp Mười đến lớp Mười Hai). Thân với nhau nhất là bạn cấp ba. Tôi có một thằng bạn học chung suốt từ lớp Sáu đến lớp Mười Hai, rồi học chung ở cả hai đại học. 15 năm cùng mài ghế ở ba mái trường, đúng là bạn học thứ thiệt!

 

Lý giải cho việc tại sao bạn trung học thân hơn bạn đại học, có người cho rằng do ở tuổi trung học chưa phải lo nghĩ nhiều về tương lai, nên học trò chỉ đi học và phá phách đúng với câu tục ngữ “nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò.” Hồn nhiên nghịch ngợm, hỏi sao mà không thân thiết? Ngôi trường trung học của tôi nổi tiếng học giỏi nhất Sài Gòn vào thời đó. Nhưng sau này khi gặp nhau, chúng tôi chỉ nhắc lại ngày xưa đã nghịch phá như thế nào. Có một thằng vượt biên đi Mỹ vào năm 1981, khi trở về Việt Nam chơi sau hơn 12 năm kể rằng sang Mỹ lấy vợ, có những đêm đang ngủ mà cười sằng sặc. Vợ gọi dậy, hỏi mơ gì mà cười dữ vậy; nó trả lời nhớ lại hồi xưa đám C3 phá vui quá!

 

Những trò phá phách của C3 thì quả là độc đáo thật, nếu ghi chép lại đầy đủ có thể thành một câu truyện vui ngắn về tuổi học trò. Đó là những trò “giải phẫu”, “đi máy bay”, “đi phi thuyền”, “trùm bao”… Cô giáo chủ nhiệm khi biết được bảo là phá gì mà ngu và nguy hiểm dữ vậy! Nhưng cũng có lần, kiểu nghịch lại mang tính “kỹ thuật cao”. Một thằng có tiếng là dốt văn, một hôm giơ tay tình nguyện lên trả bài, và xin đọc thuộc lòng bài thơ cách mạng dài và khó nhớ nhất. Thật ra là mọi chuyện đã được chuẩn bị từ trước. Bài thơ được đọc thâu sẵn trong băng cassette. Bạn lên trả bài luồn dây tai nghe qua áo xuống ống quần, để đầu cắm lòi xuống bàn chân. Khi đứng tại bàn thầy giáo, bạn hất đầu dây bung ra xuống đất. Một bạn ngồi bàn đầu, chui xuống gầm bàn nối dây vào máy cassette walkman rồi bấm nút. Bạn trả bài đọc theo trơn tru, đọc chưa đến nửa bài là thầy đã kêu ngừng và cho 8 điểm. Bạn ngồi bàn đầu tắt cassette, gỡ đầu dây; bạn kia trở về chỗ an toàn, dưới tiếng vỗ tay hoan hô của cả lớp. “Mission impossible” đã hoàn tất!

 

Một đặc điểm nữa là hầu như cả lớp tôi đều đồng lòng trong chuyện phá phách. Những nạn nhân không giận những đứa bầy trò, mà chỉ mong biến thằng khác thành nạn nhân! Những bạn học giỏi, đàng hoàng không tham gia phá trực tiếp, nhưng quan sát với sự thích thú và đồng ý ngầm. Sau này, bạn lớp trưởng “học giỏi” là người nhớ và kể lại những chuyện nghịch phá của những bạn “phá giỏi” chính xác nhất. Có lẽ vì vậy mà lớp có sự hòa đồng, thân thiết với nhau.

 

Tình bạn không mất đi sau khi chúng tôi ra trường. Sau này khi ra đời, những thằng bạn trung học vẫn tìm đến nhau. Có một thằng thành đạt sớm, làm giám đốc công ty xây dựng, kéo tôi về làm chung để có công việc ổn định, để còn lấy vợ. Quan hệ xếp và nhân viên cũng không qua được tình bạn thời niên thiếu, vẫn mày tao chi tớ như thuở nào. Trong một lần họp bạn cựu học sinh toàn trường sau 25 năm, một bạn ở lớp khác nhận xét là “C3 tui bây không phân biệt ‘khủng long ăn thịt’ và ‘khủng long ăn cỏ’, nên đoàn kết và thân với nhau lâu dài…”

 

Lên đại học, bạn bè bắt đầu phải định hướng cho tương lai, nghĩ đến sự nghiệp, lập gia đình, cho nên không còn hồn nhiên như thời trung học. Bạn đại học chia sẻ những giấc mơ tương lai, cùng nhau từng bước đi vào đời. Tôi có hai thằng bạn thân ở đại học, dắt bạn đến chơi chung với một gia đình thân hữu của gia đình tôi. Kết quả là cả hai thằng đều trở thành rể của gia đình đó. Ăn được hai cái đầu heo là điều đáng nhớ nhất của tôi đối với những người bạn đại học.

 

Thời nào cũng có bạn, dù giàu sang hay nghèo khó; nhiều người cho rằng bạn thuở hàn vi thường có tình cảm sâu đậm với nhau hơn. Những người bạn có cùng một lý tưởng sống sẽ tự tìm đến nhau để gắn kết. Nhóm bạn Hội Ca Cầm của tôi hình thành từ cuối thập niên 1970s vào thời điểm Miền Nam đang ở giai đoạn khốn khó nhất: đói, gia đình ly tán, những giá trị văn minh nhân bản bị đảo ngược. Chúng tôi thuộc đủ mọi thành phần xã hội, tìm đến nhau vì có chung một hướng đi trong cuộc sống: chịu đói vật chất nhưng không để đói về tinh thần. Người nghèo nhất nhóm làm nghề giao sữa để nuôi vợ con; người kiếm tiền khá nhất là rang và giao cà phê cho những quán cóc khắp Sài Gòn. Có người mới đi tù cải tạo về, có người sắp đi bảo lãnh, có người mới vào đại học. Chúng tôi tập hợp lại để ca hát nhạc vàng, thời đó bị coi là “đồi trụy phản động”. Chúng tôi dạy nhau cắm hoa, chụp ảnh, sáng tác nhạc. Chúng tôi đóng kịch, thảo luận về Phật học căn bản, Phật giáo ứng dụng. Giáng Sinh đến tập hát thánh ca; Phật Đản lên chùa hát cúng dường. Đó là khoảng thời gian tôi học hỏi được nhiều nhất, cảm thấy cuộc sống tràn đầy niềm vui, ý nghĩa. Sau này ly tán, chúng tôi vẫn không bao giờ quên đi những ngày tháng đó, “Những Ngày Xưa Truyện Đẹp”, là tên một bài hát của anh Trần Đại Lộc, người anh Hai của nhóm.

bạn 2
Bạn Việt Báo là những thiện trí thức Phật Giáo

 

Sang đến Mỹ khi đã quá tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”, phải làm lại cuộc đời muộn màng, tôi có thêm một số người bạn mới. Đem con đi hướng đạo, tôi kết bạn với những người có cùng lý tưởng giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam, mong chúng nên người và không quên cội nguồn. Gia nhập những nhóm Phật tử trẻ, tôi muốn góp tay đem Phật Pháp ứng dụng đến với giới trẻ, giúp các em vượt qua những áp lực tâm lý trong cuộc sống hằng ngày, có được niềm vui, giữ thăng bằng trong đời sống tinh thần. Đi làm trong Việt Báo, tôi có được những người đồng nghiệp dễ thương và cũng là bạn đạo. Những người anh lớn trong Việt Báo là những thiện trí thức Phật Giáo, giúp tôi hiểu đạo hơn, vững tin hơn vào đạo pháp. Với những pháp hữu này, đôi khi chỉ cần ngồi uống cà phê với nhau, chẳng cần nói gì về đạo mà vẫn cảm thấy bình an.Quân tử chi giao đạm nhược thủy” là vậy.  

 

Bạn là những người như vậy, cùng tôi đi qua những chặng đường vui buồn của cuộc đời. Vậy thì cớ gì vào cuối đời lại cảm thấy cô đơn, không muốn có bạn mới, mà cũng chẳng tìm đến bạn cũ?

 

Có thể là vì trong suốt thời trẻ đã dành nhiều thời gian cho bạn bè, nên cuối đời tôi muốn sống với gia đình nhiều hơn.

 

Cũng có thể cả đời hướng ngoại, khi tuổi già đến tôi muốn quay lại vào bên trong với chính mình. Các nhà khoa học gia khám phá ra nhiều điều mới mẻ về vũ trụ, nhưng vẫn còn nhiều thứ chưa biết hết bên trong lòng trái đất. Ở tuổi 60, tôi cảm thấy như chưa biết rõ mình là ai, thật sự trong cả cuộc đời mơ ước điều gì. Hiểu rõ được chính mình có lẽ là điều không có nhiều người làm được trong suốt cuộc đời.

 

Thôi thì khi tóc đã bạc màu, có lẽ cũng chưa quá trễ, tôi bắt đầu học cách làm bạn với chính mình…

 

Doãn Hưng

Ý kiến bạn đọc
09/09/202505:00:37
Khách
nhìn cô gái ... mình nghĩ ,,,không biết chết sống ra sao ... ôi một thời trai trẻ....
chúc anh khỏe và hạnh phúc
09/09/202504:58:12
Khách
Đọc bài Anh viết nghĩ rằng anh có một đời sống vui và ý nghĩa , thời bao cấp mà anh có được tình bạn như vậy là quí hiếm, đời sống của một đời người mà có những tình bạn như anh là những viên thuốc bổ vô giá , là món ăn tinh thần không thể mua được, chúc mừng anh.
người vượt biển một mình 83, năm nay 65 tuổi sống ở bắc âu đả 43 năm , nếu nghĩ lại không có người bạn như anh, nhưng có được chỉ một người vợ đã 41 năm , không quen biết ở VN nhưng vượt biển cũng tàu, cô gái trẻ nhất ghe ....
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.