Hôm nay,  

Bạn

07/09/202511:38:00(Xem: 3470)
bạn 1
Bạn trung học chụp chung với cô chủ nhiệm nhân dịp kỷ niệm 25 năm ra trường

Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết. Tại già đâm ra khó tính không thấy ai hạp? Hay tại già thích yên lặng, không muốn nói chuyện, chỉ muốn làm bạn với cây cỏ? Tôi lần mò quay lại với quá khứ, nhớ lại những người bạn xưa, để hy vọng tìm ra câu trả lời cho cảm giác lạc lõng với người thân quen trong hiện tại.

 

Người xưa có câu nói đại khái là muốn hiểu rõ một người chỉ cần nhìn xem bạn của người đó là ai, đủ để thấy bạn bè ảnh hưởng đến một đời người như thế nào. Bạn như bóng với hình, cùng ta đi qua những chặng đường đời. Bóng không phải lúc nào cũng giống hình, nhưng là sự biểu hiện của hình theo một góc nhìn nào đó. Quan niệm về bạn bè là của riêng từng người, nhưng cũng có một số điểm chung. Trong tiếng Việt, "bằng hữu" có nguồn gốc từ Hán Việt; trong đó "bằng" (朋) có nghĩa là bạn bè, và "hữu" (友) cũng có nghĩa là bạn bè. Chữ Bằng do hai chữ nguyệt ghép lại, chắc có ý nghĩa là hai người bạn thân giống như hai vầng trăng sáng. Trong tự điển Wikipedia, bạn là người quen biết, có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang hàng, hợp tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng, cùng hoạt động…

 

Như vậy, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất, bạn là người có chung với mình một điều gì. Từ lúc nhỏ, khi bắt đầu có ý thức về bản thân, người ta bắt đầu có bạn.

 

Đầu tiên là bạn hàng xóm, những người sống chung trong một con hẻm, một khu phố, một con đường. Tôi có những người bạn hàng xóm đúng nghĩa là “bạn tắm mưa” mỗi khi mùa hè Sài Gòn trút những cơn mưa lớn làm ngập con hẻm nghèo. Bạn hàng xóm của tôi khá gắn bó vì phải bảo vệ lẫn nhau. Nhà tôi ở gần cuối hẻm, có ba gia đình trí thức ở sát cạnh nhau, chung quanh là những gia đình lao động, cuối hẻm còn có dân du đãng thứ thiệt! Đám con nít ít học hay bắt nạt những thằng con nhà gia giáo. Mấy đứa chúng tôi kết bạn chơi bắn bi, đánh bông vụ, tạt lon… đồng thời hỗ trợ nhau mỗi khi đám hàng xóm bụi đời đến kiếm chuyện.

 

Những người bạn không ở gần nhà đầu tiên là bạn tiểu học, là những người có chung một mái trường, thầy cô giáo. Ở độ tuổi từ 6 đến 11, cái tôi thường chưa hình thành rõ rệt, cho nên tình bạn như tờ giấy trắng, theo cái kiểu mà nhà thơ Phạm Thiên Thư mô tả là “… như đi trên cát, bước nhẹ mà sâu, và cũng nhòa mau…” Tình cảm học trò tiểu học hồn nhiên, có phần ủy mị thái quá qua những trang lưu bút mỗi khi hè về; sau này lớn lên nghĩ lại xa nhau có ba tháng hè mà làm gì nhớ nhung đến thế! Tôi nhớ mình bắt đầu để ý đến một cô bạn gái đầu tiên là vào năm lớp Ba. Bạn này tên Mỹ Ngọc, dễ thương lắm. Vậy mà sang đến năm lớp Bốn là lại để ý đến một bạn gái khác rồi!  

 

Bạn trung học đối với tôi có ý nghĩa đặc biệt hơn, là nhóm bạn giữ liên lạc với nhau lâu nhất. Trung học có cấp hai (từ lớp Sáu đến lớp Chín) và cấp ba (lớp Mười đến lớp Mười Hai). Thân với nhau nhất là bạn cấp ba. Tôi có một thằng bạn học chung suốt từ lớp Sáu đến lớp Mười Hai, rồi học chung ở cả hai đại học. 15 năm cùng mài ghế ở ba mái trường, đúng là bạn học thứ thiệt!

 

Lý giải cho việc tại sao bạn trung học thân hơn bạn đại học, có người cho rằng do ở tuổi trung học chưa phải lo nghĩ nhiều về tương lai, nên học trò chỉ đi học và phá phách đúng với câu tục ngữ “nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò.” Hồn nhiên nghịch ngợm, hỏi sao mà không thân thiết? Ngôi trường trung học của tôi nổi tiếng học giỏi nhất Sài Gòn vào thời đó. Nhưng sau này khi gặp nhau, chúng tôi chỉ nhắc lại ngày xưa đã nghịch phá như thế nào. Có một thằng vượt biên đi Mỹ vào năm 1981, khi trở về Việt Nam chơi sau hơn 12 năm kể rằng sang Mỹ lấy vợ, có những đêm đang ngủ mà cười sằng sặc. Vợ gọi dậy, hỏi mơ gì mà cười dữ vậy; nó trả lời nhớ lại hồi xưa đám C3 phá vui quá!

 

Những trò phá phách của C3 thì quả là độc đáo thật, nếu ghi chép lại đầy đủ có thể thành một câu truyện vui ngắn về tuổi học trò. Đó là những trò “giải phẫu”, “đi máy bay”, “đi phi thuyền”, “trùm bao”… Cô giáo chủ nhiệm khi biết được bảo là phá gì mà ngu và nguy hiểm dữ vậy! Nhưng cũng có lần, kiểu nghịch lại mang tính “kỹ thuật cao”. Một thằng có tiếng là dốt văn, một hôm giơ tay tình nguyện lên trả bài, và xin đọc thuộc lòng bài thơ cách mạng dài và khó nhớ nhất. Thật ra là mọi chuyện đã được chuẩn bị từ trước. Bài thơ được đọc thâu sẵn trong băng cassette. Bạn lên trả bài luồn dây tai nghe qua áo xuống ống quần, để đầu cắm lòi xuống bàn chân. Khi đứng tại bàn thầy giáo, bạn hất đầu dây bung ra xuống đất. Một bạn ngồi bàn đầu, chui xuống gầm bàn nối dây vào máy cassette walkman rồi bấm nút. Bạn trả bài đọc theo trơn tru, đọc chưa đến nửa bài là thầy đã kêu ngừng và cho 8 điểm. Bạn ngồi bàn đầu tắt cassette, gỡ đầu dây; bạn kia trở về chỗ an toàn, dưới tiếng vỗ tay hoan hô của cả lớp. “Mission impossible” đã hoàn tất!

 

Một đặc điểm nữa là hầu như cả lớp tôi đều đồng lòng trong chuyện phá phách. Những nạn nhân không giận những đứa bầy trò, mà chỉ mong biến thằng khác thành nạn nhân! Những bạn học giỏi, đàng hoàng không tham gia phá trực tiếp, nhưng quan sát với sự thích thú và đồng ý ngầm. Sau này, bạn lớp trưởng “học giỏi” là người nhớ và kể lại những chuyện nghịch phá của những bạn “phá giỏi” chính xác nhất. Có lẽ vì vậy mà lớp có sự hòa đồng, thân thiết với nhau.

 

Tình bạn không mất đi sau khi chúng tôi ra trường. Sau này khi ra đời, những thằng bạn trung học vẫn tìm đến nhau. Có một thằng thành đạt sớm, làm giám đốc công ty xây dựng, kéo tôi về làm chung để có công việc ổn định, để còn lấy vợ. Quan hệ xếp và nhân viên cũng không qua được tình bạn thời niên thiếu, vẫn mày tao chi tớ như thuở nào. Trong một lần họp bạn cựu học sinh toàn trường sau 25 năm, một bạn ở lớp khác nhận xét là “C3 tui bây không phân biệt ‘khủng long ăn thịt’ và ‘khủng long ăn cỏ’, nên đoàn kết và thân với nhau lâu dài…”

 

Lên đại học, bạn bè bắt đầu phải định hướng cho tương lai, nghĩ đến sự nghiệp, lập gia đình, cho nên không còn hồn nhiên như thời trung học. Bạn đại học chia sẻ những giấc mơ tương lai, cùng nhau từng bước đi vào đời. Tôi có hai thằng bạn thân ở đại học, dắt bạn đến chơi chung với một gia đình thân hữu của gia đình tôi. Kết quả là cả hai thằng đều trở thành rể của gia đình đó. Ăn được hai cái đầu heo là điều đáng nhớ nhất của tôi đối với những người bạn đại học.

 

Thời nào cũng có bạn, dù giàu sang hay nghèo khó; nhiều người cho rằng bạn thuở hàn vi thường có tình cảm sâu đậm với nhau hơn. Những người bạn có cùng một lý tưởng sống sẽ tự tìm đến nhau để gắn kết. Nhóm bạn Hội Ca Cầm của tôi hình thành từ cuối thập niên 1970s vào thời điểm Miền Nam đang ở giai đoạn khốn khó nhất: đói, gia đình ly tán, những giá trị văn minh nhân bản bị đảo ngược. Chúng tôi thuộc đủ mọi thành phần xã hội, tìm đến nhau vì có chung một hướng đi trong cuộc sống: chịu đói vật chất nhưng không để đói về tinh thần. Người nghèo nhất nhóm làm nghề giao sữa để nuôi vợ con; người kiếm tiền khá nhất là rang và giao cà phê cho những quán cóc khắp Sài Gòn. Có người mới đi tù cải tạo về, có người sắp đi bảo lãnh, có người mới vào đại học. Chúng tôi tập hợp lại để ca hát nhạc vàng, thời đó bị coi là “đồi trụy phản động”. Chúng tôi dạy nhau cắm hoa, chụp ảnh, sáng tác nhạc. Chúng tôi đóng kịch, thảo luận về Phật học căn bản, Phật giáo ứng dụng. Giáng Sinh đến tập hát thánh ca; Phật Đản lên chùa hát cúng dường. Đó là khoảng thời gian tôi học hỏi được nhiều nhất, cảm thấy cuộc sống tràn đầy niềm vui, ý nghĩa. Sau này ly tán, chúng tôi vẫn không bao giờ quên đi những ngày tháng đó, “Những Ngày Xưa Truyện Đẹp”, là tên một bài hát của anh Trần Đại Lộc, người anh Hai của nhóm.

bạn 2
Bạn Việt Báo là những thiện trí thức Phật Giáo

 

Sang đến Mỹ khi đã quá tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”, phải làm lại cuộc đời muộn màng, tôi có thêm một số người bạn mới. Đem con đi hướng đạo, tôi kết bạn với những người có cùng lý tưởng giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam, mong chúng nên người và không quên cội nguồn. Gia nhập những nhóm Phật tử trẻ, tôi muốn góp tay đem Phật Pháp ứng dụng đến với giới trẻ, giúp các em vượt qua những áp lực tâm lý trong cuộc sống hằng ngày, có được niềm vui, giữ thăng bằng trong đời sống tinh thần. Đi làm trong Việt Báo, tôi có được những người đồng nghiệp dễ thương và cũng là bạn đạo. Những người anh lớn trong Việt Báo là những thiện trí thức Phật Giáo, giúp tôi hiểu đạo hơn, vững tin hơn vào đạo pháp. Với những pháp hữu này, đôi khi chỉ cần ngồi uống cà phê với nhau, chẳng cần nói gì về đạo mà vẫn cảm thấy bình an.Quân tử chi giao đạm nhược thủy” là vậy.  

 

Bạn là những người như vậy, cùng tôi đi qua những chặng đường vui buồn của cuộc đời. Vậy thì cớ gì vào cuối đời lại cảm thấy cô đơn, không muốn có bạn mới, mà cũng chẳng tìm đến bạn cũ?

 

Có thể là vì trong suốt thời trẻ đã dành nhiều thời gian cho bạn bè, nên cuối đời tôi muốn sống với gia đình nhiều hơn.

 

Cũng có thể cả đời hướng ngoại, khi tuổi già đến tôi muốn quay lại vào bên trong với chính mình. Các nhà khoa học gia khám phá ra nhiều điều mới mẻ về vũ trụ, nhưng vẫn còn nhiều thứ chưa biết hết bên trong lòng trái đất. Ở tuổi 60, tôi cảm thấy như chưa biết rõ mình là ai, thật sự trong cả cuộc đời mơ ước điều gì. Hiểu rõ được chính mình có lẽ là điều không có nhiều người làm được trong suốt cuộc đời.

 

Thôi thì khi tóc đã bạc màu, có lẽ cũng chưa quá trễ, tôi bắt đầu học cách làm bạn với chính mình…

 

Doãn Hưng

Ý kiến bạn đọc
09/09/202505:00:37
Khách
nhìn cô gái ... mình nghĩ ,,,không biết chết sống ra sao ... ôi một thời trai trẻ....
chúc anh khỏe và hạnh phúc
09/09/202504:58:12
Khách
Đọc bài Anh viết nghĩ rằng anh có một đời sống vui và ý nghĩa , thời bao cấp mà anh có được tình bạn như vậy là quí hiếm, đời sống của một đời người mà có những tình bạn như anh là những viên thuốc bổ vô giá , là món ăn tinh thần không thể mua được, chúc mừng anh.
người vượt biển một mình 83, năm nay 65 tuổi sống ở bắc âu đả 43 năm , nếu nghĩ lại không có người bạn như anh, nhưng có được chỉ một người vợ đã 41 năm , không quen biết ở VN nhưng vượt biển cũng tàu, cô gái trẻ nhất ghe ....
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.