Hôm nay,  

Nghe Tiếng Chim Bên Rừng Miến Điện

12/09/202500:00:00(Xem: 2042)
Le silence de la mer
PHOTO: Trong phim The Silence of the Sea, mối tình câm lặng giữa chàng sĩ quan Đức, và cô gái Pháp.
 
Bạn có thể xem bài này như truyện ngắn. Có thể gọi là nhiều truyện ngắn trong một truyện ngắn, hay là ghép từ nhiều mẩu truyện. Bạn cũng có thể đọc như tùy bút, hay bản tin, hay là vân vân... nghĩa là bất cứ những gì có chữ, có thể đọc lên, có thể nghe được như âm thanh. Đó là những gì tự nhiên hiện lên trong trí nhớ của tôi, những gì tôi bất chợt nghe bên tai khi ngồi bên sông, ven biển, góc rừng, hay khi nửa đêm nhìn ra hàng hiên.

Thế giới hiện ra với tôi như thực, như hư, không có gì để xác định là có, hay để khẳng định là không. Tất cả thế giới hiện ra với tôi chỉ như một cuốn phim, một khoảnh khắc lướt qua là kéo theo tất cả hình ảnh và âm thanh nơi đó biến mất. Để rồi, tới một khoảnh khắc mới với những hình ảnh và âm thanh mới, rồi cũng biến mất liền. Nơi đó, thỉnh thoảng có một tiếng chim két nói, “Mizushima, hãy về quê hương với các bạn nhé.” Và rồi một khoảng lặng, một chặp sau, là tiếng chim khác, lúc thì chim này đậu trên vai một nhà sư, và lúc thì chim theo trên thuyền của các tù binh Nhật Bản được quân đội Anh thả từ trại tù Miến Điện trên đường về nhà một thời gian sau khi Nhật Bản đầu hàng đồng minh, “Tôi không trở về đâu. Tôi phải đi tìm chôn xác các bạn đồng ngũ tử trận.”

Tại sao tiếng chim két trong phim “The Burmese Harp” (Tiếng Đàn Miến Điện) mà tôi xem từ những ngày thơ ấu lại cứ âm vang trong kho tàng âm thanh của tâm mình? Tôi không biết, và cũng không muốn phân tích kiểu khoa học. Tôi đã quen kiểu tỉnh thức với thấy và nghe kiểu như, thì mọi chuyện cứ theo vận hành nhân quả và duyên khởi xảy ra, thì hãy để nó thế là thế, chẳng bận tâm gì. Nói cho đúng ra, tôi cũng một thời ưa lắng nghe kiểu phim ảnh và truyện cổ tích.

Tôi tin rằng rất nhiều người còn nhớ hình ảnh thường gặp trong phim cao bồi Hoa Kỳ: một anh da đỏ áp sát tai xuống mặt đất để lắng nghe, rồi ngẩng lên nói rằng có khoảng chừng bao nhiêu con ngựa đang phóng ở khoảng cách bao xa đó. Có phải đó thuần là do các đạo diễn Hollywood tưởng tượng ra? Hình ảnh người thổ dân da đỏ áp tai xuống đất để nghe tiếng vó ngựa hay bước chân từ xa là một kiểu phổ biến trong điện ảnh Mỹ, đặc biệt trong các phim cao bồi miền Tây. Sau này tôi đọc nhiều, mới biết chuyện lắng nghe xuyên mặt đất phần lớn là hư cấu. Họ nhìn đất như bà mẹ che chở, bao dung nuôi dưỡng chúng ta, ban tặng chúng ta dòng suối, đồng lúa... chứ không phải như dây thép truyền tin. Thực tế, âm thanh truyền đi trong không khí, trong gió tốt hơn truyền qua mặt đất.

Thí dụ, một truyện kể rằng: Ngày xưa, có một cậu bé tên Tawa, thuộc bộ tộc Hopi. Một hôm, khi lạc trong rừng, Tawa không khóc, không gọi. Em quỳ xuống, áp tai vào đất, thì nghe tiếng thì thầm: “Con đường về nằm dưới bóng cây già nơi mặt trời lặn.” Tawa đi theo lời đất, và quả thật, nơi ấy là lối về làng. Từ đó, người trong bộ tộc dạy con cháu: “Đất không chỉ nuôi thân, mà còn giữ trí nhớ tổ tiên. Ai biết lắng nghe, sẽ không bao giờ lạc đường.” Khi đọc như thế, tôi tự nhủ, vâng, trong tiếng thì thầm của đất vọng lên có lẫn tiếng chim kêu ven rừng Miến Điện.

Có một cuốn tiểu thuyết nhiều người trong thế hệ của tôi còn nhớ. Đó là tiểu thuyết Siddhartha của nhà văn Hermann Hesse, với bản dịch tiếng Việt của Ni sư Trí Hải là Câu Chuyện Dòng Sông. Nhà văn Hermann Hesse đã dùng hình ảnh dòng sông như một biểu tượng thiêng liêng của trí tuệ, thời gian, và sự giác ngộ. Dòng sông trôi đi là biến mất, không bao giờ có khoảnh khắc nào quay trở lại. Nơi đó, dòng sông là vị thầy thầm lặng.

Khi Siddhartha ngồi bên dòng sông sau bao năm phiêu bạt, chàng không còn tìm kiếm giáo lý hay lời giảng nữa. Thay vào đó, chàng lắng nghe tiếng dòng sông trôi chảy, nơi đó từng mỗi khoảnh khắc của dòng sông là hiện diện đồng thời của quá khứ, hiện tại, và vị lai. Và như thế, từng khoảnh khắc đều là hiện tại. Nơi đây, mọi âm thanh của dòng sống chung quanh—tiếng cười, tiếng khóc, tiếng gọi của muôn loài—đều vang lên trong tiếng dòng sông trôi chảy, như một bản hòa tấu của vũ trụ. Nơi đây, không có cái chết, chỉ có sự chuyển hóa của nước; và như thế, tất cả bọt sóng chính là nước, và tất cả đều là một.

Tới khi đọc tiểu thuyết Câu Chuyện Dòng Sông lần thứ nhì, tôi chợt nhớ tới tiếng chim đậu trên vai trung sĩ Nhật Bản Mizushima trong bộ trang phục nhà sư Miến Điện, “Tôi sẽ không trở về đâu.” Lúc đó, tôi mới vào đại học, khoảng năm 1970, mường tượng như hiểu ra rằng sông nước đã trôi đi là không thể trở lại, bọt sóng đã vỡ tan là hòa nhập vào sông. Vài năm sau, đọc lại lần nữa, tôi nhận ra rằng đau khổ chính là khi tự thấy mình là bọt sóng, nên mới thấy có sinh ra bọt sóng và có vỡ tan bọt sóng; nhưng hễ thấy mình là sông thì hoàn toàn không thấy sinh, và không thấy diệt. Lúc đó, tôi mường tượng tôi hiểu được khi nhớ tới bài thơ của Tuệ Trung Thượng Sỹ khi ngài nói rằng muốn vượt sông, hãy như trâu bùn lội qua sông, bởi vì trâu bùn sẽ tan vào nước.

Tôi vốn dốt nhạc, chẳng hiểu gì về đàn, với ca... mặc dù trong nhóm bạn học có nhiều tên giỏi nhạc. Nổi tiếng, cùng lớp B4 Chu Văn An lúc đó có nhạc sĩ Quốc Dũng. Thời lớp 10, hồi đó là Đệ Tam, tôi từng mua một cây đàn guitar và một sách tự học đàn. Nhưng chẳng tới đâu, vài tuần là bỏ một góc. Tôi tin rằng mình không có năng khiếu. Tuy nhiên, nhiều năm sau tôi mới nghiệm ra rằng, mình thích nghe, nhưng không thích làm ra âm thanh. Nghĩa là, nghiệp nhiều đời đã dẫn tới một thói quen đời này. Trong lớp, có Nguyễn Tiến, về sau bạn này sáng tác nhạc với tên là Nguyên Từ Mỹ. Nhưng bạn này du học Mỹ từ năm 1970. Khoảng năm 1972, năm của Tổng Động Viên, tôi và một số bạn ưa vào sân Chùa Xá Lợi, ngồi học bài, hay làm thơ, hay tán tỉnh các cô, và đôi khi bạn Cung Nhật Thành mang đàn guitar ngồi sân chùa để đàn cho cả bọn nghe.

Hình ảnh rất đẹp khi tôi nhớ lại: mấy tên sinh viên ngồi ghế đá sân chùa, giữa các gốc cây ngọc lan  già, nghe bạn đàn guitar, đôi khi bạn hát nho nhỏ... Có ai biết được, chiến trường mấy ai trở lại. Có lúc, nơi ghế đá nhà chùa, tôi chợt nhớ tới tiếng chim trong hàng rào nhà tù của phim Tiếng Đàn Miến Điện, rằng Mizushima ơi, về quê hương nhé, và rồi, tiếng con chim két đang đậu trên vai nhà sư đứng ngoài vòng rào nhà tù, rằng tôi sẽ không về đâu. Tôi khám phá ra một điều mà tôi gọi là kinh khủng: trong phim Tiếng Đàn Miến Điện không hề có hình ảnh cô gái nào, chỉ duy nhất có một bà già Phật Tử Miến Điện lụm khụm, thường cúng dường thức ăn cho sư và bố thí thức ăn cho tù binh Nhật Bản. Tại sao, làm phim dài gần 2 giờ đồng hồ mà không có hình ảnh một thiếu nữ? Trời ạ. Phim này toàn là đàn ông, súng đạn bắn nhau, phi cơ dội bom, trại tù binh, và duy nhất nữ tính là một bà già lụm khụm. Sau này, khi viết truyện, tôi luôn luôn tự nhủ, Cha nội ơi, viết truyện mà không có tiếng cười thiếu nữ thì sẽ hỏng...

Cũng trong các năm đó, tôi đọc được cuốn Sự Im Lặng Của Biển -- bản Việt dịch của Trịnh Huy Tiến từ cuốn Le Silence De La Mer của tác giả Vercors, do Trung Tâm Học Liệu xuất bản. Nhiều thập niên sau, tôi mới được xem chuyển thể phim của cuốn này trên YouTube. Chính nhờ truyện này, tôi nghiệm ra rằng tình yêu có thể xuất hiện từ tiếng đàn dương cầm, và đây là tình yêu ngang trái giữa người sĩ quan Đức trong lực lượng chiếm đóng nước Pháp các năm đầu thập niên 1940s, và cô gái Pháp yếu đuối. Cô gái im lặng, không nói với chàng sĩ quan Đức một lời trong suốt phim, nhưng thỉnh thoảng tiếng đàn của họ như nhắn gửi cho nhau.

Phim này có thể gọi là tiếng nói không lời của kháng chiến Pháp. Trong bối cảnh nước Pháp bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, một người kể chuyện và cô cháu gái sống trong một ngôi nhà nhỏ ở vùng quê. Họ buộc phải tiếp đón một sĩ quan Đức tên Werner von Ebrennac đến cư trú. Tuy nhiên, suốt thời gian viên sĩ quan ở đó, cả hai người Pháp này giữ im lặng tuyệt đối, không nói một lời với sĩ quan Đức kia.

Werner, trái ngược với hình ảnh kẻ xâm lược, là một người yêu văn hóa Pháp, mơ về sự hòa hợp giữa hai dân tộc. Chàng nói cho chủ nhà và cô cháu gái mỗi tối, chàng độc thoại về âm nhạc, văn học, và lý tưởng của mình. Nhưng sự im lặng của hai người chủ nhà trở thành một hành động phản kháng thầm lặng của dân tộc Pháp, thể hiện lòng yêu nước và phẩm giá không khuất phục. Cuối cùng, khi nhận ra sự thật về chiến tranh và sự tàn bạo của chế độ mình phục vụ, và nhận lệnh phải di quân về đơn vị mới, Werner rời đi, mang theo nỗi thất vọng và sự thức tỉnh. Tác phẩm Sự Im Lặng Của Biển là một biểu tượng của kháng chiến nội tâm, nơi ngôn ngữ bị từ chối để bảo vệ nhân phẩm.


May mắn, tôi đã đọc sách đó trước 1975 để rồi tự mình chiêm nghiệm nhiều năm sau, khi thỉnh thoảng đọc lại. Và thỉnh thoảng, khi tôi lắng nghe các khoảng cách im lặng ngăn cách giữa thiếu nữ Pháp và chàng sĩ quan Đức, tôi lại nhớ tới tiếng chim két đậu trên vai nhà sư trong phim Tiếng Đàn Miến Điện. Một đi, là không trở lại. Không có bất kỳ cái gì trên đời này trở về. Và tôi lại nhớ tới hình ảnh chàng trung sĩ quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản khi chàng rời áo lính Nhật để mặc lên bộ áo nhà sư Miến Điện, và chàng nói rằng chàng muốn đi tìm xác đồng đội trong các khu rừng Miến Điện để chôn cất, thì nhà sư già Miến Điện nói: "Nếu muốn làm như thế, thì sẽ mất cả một đại kiếp." Tôi nói chữ đại kiếp, là vì đọc theo phần phụ đề. Than ôi, cõi này buồn vô tận.

Tôi nghĩ rằng phim The Silence of the Sea trên YouTube là một đại tác phẩm, một kinh điển cần xem cho những ai muốn học sáng tác, như làm phim, viết truyện, và cũng để học lắng nghe. Và dĩ nhiên, cũng để nhận ra rằng trong cõi này, sống từ bi là phải phản chiến. Và đặc biệt, cần phải nghiệm ra rằng, trong phim, trong truyện mà không có hình ảnh một thiếu nữ thì hẳn là hỏng. Tôi chỉ tiếc khi xem phim này, mình không đủ trình độ thẩm âm để cảm nhận hết những gì chàng sĩ quan Đức và cô gái Pháp muốn nói với nhau. Điều tôi học thêm chút ít âm nhạc và kỹ thuật phim (cũng là truyện), là khi cô gái muốn báo động cho chàng sĩ quan Đức rằng trên xe của chàng đã bị quân kháng chiến Pháp gài bom, cô hốt hoảng gõ tưng bừng vào đàn dương cầm theo điệu nhạc nào đó. Và khi chàng sĩ quan Đức từ biệt để trở về chiến trường, cô gái Pháp đã khóc. Than ôi, cõi này có biết bao nhiêu là sầu thương. Phim này xem miễn phí ở đây:
Nghe, lắng nghe, tôi đã hạnh phúc khi được học nghe trong cõi này. Một điều tôi cũng hạnh phúc là gần đây được xem lại phim Tiếng Đàn Miến Điện (The Burmese Harp) trên YouTube. Cảm giác không còn như thời mới lớn. Mặc dù vậy, ký ức về tiếng chim két bên rừng Miến Điện vẫn là những âm vang kêu gọi của từ bi, của yêu thương giữa một cõi trần gian rất mực đau khổ.

Nhân vật chính của phim là Mizushima, một người lính Nhật trong chiến dịch Miến Điện cuối Thế Chiến II. Sau khi đơn vị đầu hàng, anh được giao nhiệm vụ thuyết phục một nhóm lính cố thủ trên núi đầu hàng. Họ từ chối, và tất cả đều chết vì bom của quân Anh.

Mizushima sống sót, nhưng bị thương và được một nhà sư Miến Điện cứu. Trong quá trình hồi phục, anh mặc áo cà sa, bắt đầu chôn cất các thi thể lính Nhật, và dần dần chuyển hóa tâm hồn từ chiến binh sang người tu hành. Anh từ chối trở về Nhật, chọn ở lại Miến Điện để hồi hướng công đức cho những người đã ngã xuống.

Một con chim két được nhóm lính Nhật trong trại tù binh huấn luyện để nhắn ra với Mizushima rằng: “Mizushima, hãy về Nhật đi!” Chim két này lặp đi lặp lại lời kêu gọi của đồng đội, như tiếng vọng của quê hương, của tình thân. Nhưng Mizushima không đáp. Chim két, loài chim biết nói, trở thành biểu tượng của ký ức và lời mời gọi, nhưng cũng là tiếng vọng không thể lay chuyển được người đã chọn con đường giải thoát. Và rồi nhà sư (nguyên là trung sĩ quân đội Nhật Bản Mizushima) cũng huấn luyện một chim két khác để trả lời vọng qua rào kẽm gai trại tù binh cho các đồng đội cũ: "Tôi không về đâu."

Phim không có nhân vật nữ trẻ trung nào như truyền thống điện ảnh thường thấy. Thay vào đó, chỉ có một bà cụ Phật tử Miến Điện, xuất hiện vài lần, tuy thời lượng ngắn ngủi, nhưng đầy chuyển biến cho truyện phim, và luôn luôn tỏ lộ ra tình yêu thương rất nhân hậu. Hình ảnh này cho thấy chủ đề chính không phải là tình yêu lãng mạn, mà là tình thương vô ngã, lòng từ bi và sự đau đớn trong một cuộc chiến phải truy sát lẫn nhau. Bà cụ tượng trưng cho tình mẫu tử phổ quát, cho lòng từ bi của đất nước Miến Điện, nơi anh Mizushima chọn ở lại để hóa thân thành một nhà sư để chăm sóc cho các chiến hữu đã tử trận.

Nhân vật Mizushima, trước và sau khi mặc áo nhà sư, vẫn là hình ảnh khó tìm trong đời thực: từ bi, trong sáng. Thực ra, toàn bộ các nhân vật trong phim đều rất mực từ bi, trong sáng, ngay cả khi cuộc chiến diễn ra gay gắt, các nhân vật trong phim (cả lính Anh và lính Nhật) vẫn tử tế với nhau, và rồi ngay cả khi đơn vị lính Anh vây bắt sống lính Nhật. Lính Nhật bị bao vây, cùng hát các dân ca Nhật thật lớn để giữ tinh thần cho nhau. Trong khi đó, lính Anh tràn ngập bốn hướng, bao vây nhóm lính Nhật, cũng lớn tiếng hát thật lớn trong khi khép vòng vây để nhóm lính Nhật biết rằng cần phải đầu hàng. Không bên nào hiểu được lời ca bên kia vì khác ngôn ngữ, nhưng hình ảnh quân Anh tiến tới, hát lớn trong khi siết vòng vây trung đội lính Nhật cho thấy lính Anh không muốn nổ súng truy sát. Than ôi, Việt Nam mình đâu có như vậy.

PHOTO 2 tieng dan Mien Dien

Phim Tiếng Đàn Miến Điện.

Chiếc đàn hạc cầm Miến Điện mà Mizushima chơi không chỉ là nhạc cụ, mà là tiếng nói của tâm hồn, của sự siêu thoát. Tiếng đàn để làm dứt bặt lời nói, để dứt bặt tiếng súng, để dứt bặt mọi tranh luận. Trong tiếng đàn ấy, có cả nỗi đau, sự thức tỉnh, và lòng từ bi. Than ôi, tôi không đủ hiểu về âm nhạc để nói về tiếng đàn. Phim Tiếng Đàn Miến Điện có thể xem trên YouTube, ở đây (nhớ vào cc rồi auto-translate=>subtitles/cc rồi Italian=>> English hay Vietnamese):
Bây giờ, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua. Nhóm học trò ngồi sân Chùa Xá Lợi nghe đàn guitar những buổi chiều năm xưa đã có nhiều bạn từ giã cõi này. Có bạn bệnh nặng, phải ngồi xe lăn, tập khôi phục sức khỏe. Tôi vẫn luôn luôn là kẻ nhớ về chiếc ghế đá, cội ngọc lan, và tiếng hát học trò của một thờ quê nhà chinh chiến.

Trong nhóm bạn Chu Văn An, tôi gặp lại Tiến, chàng nhạc sĩ sáng tác với tên là Nguyên Từ Mỹ. Chàng kể một số kỷ niệm khi vẫn sáng tác nhạc trong khi du học ở đại học CSU Long Beach từ năm 1970. Bạn Nguyên Từ Mỹ kể về một chấn động lớn trong tim, rằng sau chàng một hay hai lớp có một nữ sinh viên Việt Nam thuộc hàng tuyệt sắc giai nhân, hát xuất sắc và làm thơ cũng rất hay. Do chuyển trường, chàng và nàng xa nhau. Tình cờ, vài năm sau, khi gặp lại trong một tiệm ăn Việt Nam, nàng tới chào hỏi. Nhạc sĩ Nguyên Từ Mỹ nhìn thấy đầu của nàng không còn sợi tóc nào. Thoạt nghĩ rằng nàng đã trở thành ni cô, nhưng không phải. Nàng bị ung thư, đang chữa trị. Thời gian ngắn sau, có tin nàng từ trần. Nguyên Từ Mỹ làm một ca khúc để tưởng nhớ nàng. Khi nghe Tiến hát ca khúc này tại nhà một người bạn, tôi nghe vọng lại âm vang của Câu Chuyện Dòng Sông, xen lẫn trong đó có tiếng chim két trên vai nhà sư và tiếng đàn hạc cầm Miến Điện. Tôi đã gọi nhạc của Nguyên Từ Mỹ là nhạc của ước mơ bình an, nhạc của một chàng trai may mắn thoát khỏi cuộc đao binh Nam-Bắc.

Bây giờ thì, Nhóm Bạn B4CVA và ATNT Travel & Tours sẽ bảo trợ cho buổi nhạc thính phòng Vẫn Mãi Không Quên, nơi đây nhạc sĩ Nguyên Từ Mỹ sẽ nói về mỗi nhạc phẩm là một câu chuyện, trong đó có sự tham gia của Phương Lan (Pianist), Hoàng Công Luận (Violinist), Hân Holiday (Guitarist), các Ca Sĩ Lê Hồng Quang, Hương Thơ, Hoàng Vân, Tuyết Mai và MCs Phillipe Dương, Hoài Trang. Tại Nhật Báo Người Việt, 14771 Morant St, Westminster, CA. Vào Chủ Nhật 28 tháng 9/2025, từ 2pm- 5pm. Nếu bạn chưa được mời, xin bạn đặt chỗ qua điện thoại (text only): 714-277-7375 (P. Lan), hay 714-797-9555 (P.Hải).

Đôi khi tôi suy nghĩ về kỹ thuật dựng truyện dựa theo những gì mình đã đọc và đã xem. Trong khi viết, tôi vẫn nghe những lời chim két trong phim, hay là lời dòng sông, hay là tiếng hạc cầm Miến Điện. Tôi biết, tôi có thể viết truyện mà không cần nhân vật nữ. Tuy nhiên, có những hình ảnh tôi nghĩ tới là xúc động, nhưng không viết nổi: khi nhóm lính Nhật hát lớn lên để cho đỡ sợ trong khi ghìm súng phòng thủ, và bốn hướng là quân Anh đang bao vây, bước tới giải giới quân Nhật trong khi hát lớn lên để cho biết rằng họ không muốn nổ súng. Nước mình đâu có vậy đâu.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.