Hôm nay,  

Đi Tìm Dùi Trống Hoa Kỳ

09/11/200600:00:00(Xem: 10027)

Đi Tìm Dùi Trống Hoa Kỳ

Iraq sau bầu cử Mỹ sẽ cúi đầu chờ đợi...

Việc cử tri Hoa Kỳ trừng phạt chính quyền Bush và đảng Cộng hoà là điều ai cũng có thể đoán ra. Phân vân nếu có là ở mức độ trừng phạt và khả năng tử thủ của từng ứng viên.

Lý do trừng phạt là tội bê bối và kênh kiệu của đảng và sự cứng cỏi của chính quyền Bush mà người ta coi là ngoan cố. Chuyện ấy, xin dành cho các nhà nghiên cứu về lịch sử.

Về tương lai, Iraq sẽ bị cắt giây và thả nổi.

Sau khi ông Johnson thất bại từ vụ Mậu Thân, một số lãnh đạo Việt Nam đã vui mừng vì có quan hệ tốt đẹp hơn với lãnh đạo mới, Tổng thống Richard Nixon. Kết quả ra sao, người Việt đã trả giá để biết. Dân Iraq ngày nay thì chưa.

Ông Bush đã biết trước sự phán xét nghiêm khắc của cử tri. Ông là lãnh tụ đáng kính vì chung thủy với những người chung thủy với mình khi cởi áo nhập trận và đi tranh cử cho ứng viên Cộng hoà ở những nơi nguy ngập nhất. Nhưng ông cũng đủ sáng suốt để hiểu là sẽ không thể tiếp tục như xưa nên đã chuẩn bị chuyển hướng. Ông gặp Robert Gates từ hôm Chủ nhật để tìm giải pháp thay thế Tổng trưởng Donald Rumsfeld tại bộ Quốc phòng.

Robert Gates là người không xa lạ. Gần nhất, ông là thành viên của ủy ban cứu nguy Hoa Kỳ, Iraq Study Group, do cựu Ngoại trưởng Cộng hoà James Baker và cựu Dân biểu Dân chủ Lee Hamilton làm đồng chủ tịch. Ông Bush cho lập ra ủy ban này để tìm giải pháp khác cho Iraq - không, xin viết lại, cho Hoa Kỳ tại Iraq. Thành viên của ủy ban là những người am hiểu mà chưa có tham vọng chính trị nhất thời - điều hiếm có tại Mỹ - thuộc về cả hai đảng và nhiều xu hướng an ninh hay ngoại giao khác nhau.

Danh mục của ủy ban có thể là một thứ "tinh hoa của Mỹ" vào lúc nguy ngập: Rudy Giuliani hay Edwin Meese bên Cộng hoà, William Perry và Leon Panetta bên Dân chủ, v.v…

Bây giờ, sau ngày bầu cử thê thảm cho ông, Tổng thống Bush không thể bổ nhiệm một thành viên của Ủy ban đó vào Ngũ giác đài mà coi thường những đề nghị mà ủy ban sẽ công bố. Lá tử vi của Iraq cần được "chấm" và "bình" căn cứ trên những gì mà ủy ban ISG này nhìn thấy và đề nghị.

Họ nhìn thấy là chính quyền Bush và ông Rumsfeld muốn xây dựng một chính quyền ba thành phần tại Iraq và căng mỏng lực lượng Mỹ hầu tạo điều kiện cho chính quyền ấy vận hành được cho đến khi có khả năng nhận lãnh trách nhiệm. Chuyện ấy không thành, lính Mỹ chết nhiều hơn mà chính quyền liên hiệp tại Baghdad vẫn chưa nhận lãnh nổi trọng trách trong khi sự bấp bênh mập mờ ấy là cơ hội cho mọi hệ phái, và cả Iran, quậy phá tối đa.

Hãy nhớ đến sự ngỡ ngàng của Mỹ sau khi ông Diệm bị lật đổ, nhưng với kích thước trầm trọng gấp ngàn lần: ông Diệm không là Saddam Hussein, ngược lại cả triệu lần! Và các hệ phái Iraq còn quyết liệt hơn các tướng tá hay chuyên gia đảo chánh tại Saigon trong các năm 64-65.

Vì vậy, đến tháng Tám vừa qua, khi trùm khủng bố Abu Musab al-Zarqawi đã bị giết mà tình hình chưa có hướng ổn định, chúng ta và trước tiên là chính quyền Bush phải biết là chuyện không xong! Ông Bush đành công nhận là chuyện không xong vào mùng tám vừa qua, sau khi bị cử tri phản ứng. Bây giờ, đến lượt ủy ban cứu nguy nước Mỹ sẽ đề ra giải pháp cứu vãn và tân Tổng trưởng Quốc phòng Robert Gates sẽ thực hiện.

Giải pháp đó không thể là tiếp tục chuyện xưa, cho lính Mỹ canh chợ canh chùa để bị bắn sẻ mà chính quyền liên hiệp vẫn chẳng liên kết được ai và không bảo vệ được an ninh tối thiểu. Giải pháp ấy cũng chẳng thể là lập tức giận lẫy Iraq mà kéo quân trở về. Khoảng trống ấy sẽ có sức hút rất mạnh cho quân khủng bố và Iraq, để sẽ làm tan nát toàn khu vực Trung Đông và dội ngược về Mỹ. Giải pháp ấy có thể là "rút mà không ra" - như ông Clinton hút mà không hít - là rút quân khỏi vùng hoả tuyến trong các thành phố để lui về cố thủ trong các căn cứ hầu gián chỉ, can ngăn, giấc mơ phiêu lưu của Iraq.

Mà giải pháp nào thì cũng phải tráng một lớp men chính trị: định nghĩa lại mục tiêu tham chiếm và mục đích yêu cầu của Mỹ tại Iraq.

Tổng trưởng Robert Gates sẽ hoàn tất việc tái phối trí ấy.

Dân Iraq ở lại sẽ nhặt miểng đạn và tự nêu câu hỏi về giá trị của Tây phương, từ nguyên tắc dân chủ đến lời cam kết. Ông Donald Rumsfeld không hẳn là thủ phạm hay nạn nhân duy nhất của thảm kịch này.

Người Việt Nam đã biết điều ấy từ xưa!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.