Hôm nay,  

Iraq Trên Dòng Potomac

24/11/200600:00:00(Xem: 9403)

Iraq Trên Dòng Potomac

Có ai biết lập trường của thủ đô Mỹ về Iraq là gì hay không"

Câu hỏi ấy có thể gây khó chịu. Sự hiểu biết thông thường đều cho thấy đảng Cộng hoà đã thất cử và Chính quyền Bush mất sự ủng hộ của quần chúng do chuyện Iraq. Nhưng, người ta vẫn cần nêu lại câu hỏi: giới lãnh đạo Hoa Kỳ, từ hai chính đảng qua đến các lãnh vực khác - tôn giáo, kinh doanh, hay nghiệp đoàn - hiện muốn gì tại Iraq"

Chúng ta không rõ. Trong khi cả nước - nhất là truyền thông - bàn tán sâu rộng về chiến tranh Iraq, người ta không đào đâu ra một lập trường mạch lạc hoặc lý luận thuần nhất về lẽ chiến hay hoà ở ngay trung tâm Hoa Kỳ là thủ đô Mỹ, nơi cọ sát sự tác động của mọi trung tâm quyền lực.

Lý do có thể là vì Chính quyền Bush đã thu hút hoặc phóng chiếu ra lý luận căn bản nhất. Nhưng, điều ấy không giải thích tất cả, và có thể giải thích vì sao Iraq sẽ là biến cố làm thay đổi chính trường Mỹ sâu đậm hơn người ta thường nghĩ.

Đầu tiên, hãy xét tới đảng Dân chủ.

Nền tảng lý luận của đảng này ở dưới cơ sở, trong "quần chúng đảng", đã chuyển dịch về cánh tả và phản chiến. Lãnh đạo của đảng ở trên lại cố bám lấy vị trí trung tả nguyên thủy và tránh bị dán nhãn hiệu "phản chiến" hay tháo chạy.

Trong cuộc bầu cử 2004, đảng Dân chủ chọn ứng viên John Kerry cũng vì lối tính toán nước đôi ấy, chủ hoà mà không ra phản chiến! Sau khi thắng cử, đảng này cũng đẩy Dân biểu chủ hoà John Murtha ra biên và đề cử Dân biểu Steny Hoyer của Maryland vào ghế Trưởng khối đa số. Lý lịch tham nhũng của John Murtha - mà truyền thông cố tình bỏ qua không xét hỏi - không giải thích tất cả!

Huống hồ, đảng này đã đẩy Nghị sĩ Joe Lieberman ra ngoài vì ông ủng hộ cuộc chiến Iraq mà cuối cùng, Lieberman lại thắng lớn trong tư thế Độc lập. Đối thủ do đảng này đưa ra tại Connecticut, Ned Lamont, con nhà tỷ phú, thiên tả và phản chiến - tiêu biểu cho xu hướng Dân chủ đáng ghét - đã bị đại bại: lập trường chiến hoà về Iraq không là yếu tố quyết định.

Đây là một nghịch lý rất… hợp lý.

Đảng Dân chủ không muốn trưng bày ra một quan điểm chủ trương rõ rệt về Iraq vì bề nào cũng hốt phiếu phản chiến. Nếu có bày ra lập trường phản chiến quá đáng thì không lấy phiếu được thành phần trung dung ôn hoà bên đảng Cộng hoà. Họ tính rất đúng như kết quả bầu cử cho thấy. Họ chỉ cần đả kích phương thức tiến hành chiến tranh của Chính quyền Bush là đủ ăn tiền. Huống hồ, càng nói nhiều thì càng bị kẹt trong cuộc tổng tuyển cử 2008.

Mà sở dĩ đảng Dân chủ mờ ảo qua sông Potomac và thắng lớn tại Thủ đô trong Quốc hội khoá 110 tới đây vì, ngoài thành phần phản chiến, thì quần chúng của đảng… không mấy quan tâm đến chuyện Iraq.

Quần chúng truyền thống của đảng - là các nhóm đấu tranh cho dân quyền, kể cả quyền phá thai hay hôn nhân đồng tính, là công chức, dân thiểu số, nghiệp đoàn và thành phần bảo vệ môi sinh - đều chia sẻ một ấn tượng chung là ghét Bush nhưng họ theo đuổi những mục tiêu riêng. Họ không cần một chủ trương rõ rệt về Iraq.

Kết cuộc thì đảng Dân chủ tránh không thảo luận trong nội bộ về lẽ tiến thoái tại Iraq và đã thắng lớn nhưng sau đó vẫn chưa có một chủ trương gì về một cuộc chiến đang gây sôi nổi trong cả nước.

Đảng Cộng hoà thực ra cũng chẳng khá hơn.

Đảng này không hỏi giấy đảng Dân chủ, như ông Bush thường hỏi ("Thế kế hoạch của quý vị là gì"") và mặc nhiên để chính quyền Bush là phiến nam châm thu hút mọi thịnh nộ hay ủng hộ của quần chúng. Vì sao lại có hiện tượng kỳ lạ ấy"

Vì chiến lược của ông Bush.

Rút kinh nghiệm thất cử của phụ thân năm 1992, vì lý do kinh tế, ông Bush tiến hành chiến tranh mà không muốn quần chúng phải kề vai chia sẻ gánh nặng. Trong tinh thần ấy, ông hành xử như một vị Tổng thống Texas khác là Lyndon B. Johnson trong cuộc chiến Việt Nam. Ông khai chiến, giảm thuế và không một lần phủ quyết việc tăng chi phi lý của Quốc hội do phe Cộng hoà kiểm soát. Trong cuộc chiến đáng lẽ phải của toàn dân vì mang đặc tính toàn diện, ông Bush phó thác cho và tin tưởng vào quân đội và cơ quan tình báo. Còn mọi chuyện khác ở hậu phương thì vẫn là chuyện thời bình.

Việc gì lãnh đạo đảng Cộng hoà phải tranh luận hoặc thảo luận với Hành pháp về Iraq" Đã thế, ngoài Tổng thống, Phó Tổng thống và hai Tổng trưởng Ngoại giao và Quốc phòng, không thấy một nhân viên nội các nào  của ông Bush nói đến chiến tranh hay hy sinh trong thời chiến.

Điểm đặc biệt nữa là doanh trường, nghiệp đoàn và cả các tôn giáo cũng không có lập trường quan điểm gì rõ rệt về Iraq. Chiến hay hoà, tiến hay thoái, và làm sao giải quyết"… là những câu hỏi không được các thành phần ấy nêu ra, trước nhất là trong nội bộ của mình, sau đó là cho chính quyền Bush. Nếu lãnh đạo các thành phần xã hội ấy mà công khai tranh luận và nói thẳng với Tổng thống, rằng quần chúng của chúng tôi có quan điểm khác, hết ủng hộ Tổng thống trong trận Iraq thì sự thể có lẽ đã khác.

Lần duy nhất họ có phản ứng là hôm mùng bảy vừa qua, khi không thèm đi bầu cho đảng Cộng hoà, hoặc bực bội bước qua bầu cho đảng Dân chủ, và chính quyền Bush bị thất bại mà vẫn không biết lòng dân, hoặc ít ra những thành phần quần chúng đó muốn gì tại Iraq!

Thành phần chủ chiến, những người quan ngại cho nền an ninh của Mỹ hoặc thân nhân các chiến binh Mỹ, đã ủng hộ ông Bush đến tận cùng. Quan điểm của họ là phải cần thời gian mới có kết quả tại Iraq. Nhưng cuối cùng thì họ cũng nản chí. Việc ông Bush chuẩn bị một nhóm nghiên cứu về Iraq, với sự tham dự của giới ngoại giao ôn hoà, thực tiễn và ban tham mưu của ông Bush cha, khiến thành phần chủ chiến thất vọng. Việc ông Bush cách chức Tổng trưởng Rumsfeld càng gây thất vọng nặng hơn. Nếu cần thì sao không làm từ trước khi bầu cử, dù bất công thì cũng còn có lợi!

Họ coi là ông Bush đành thỏa hiệp và hy sinh quyền lợi lâu dài của Hoa Kỳ. Họ buồn bã ở nhà không đi bầu hoặc dồn phiếu cho các ứng viên Dân chủ không chủ trương tháo chạy. Jim Webb hốt phiếu khá nhiều của thành phần này tại Virginia. Và họ hoài nghi về chính trường, y như các thành phần bảo thủ và cực hữu của Pháp đã hoài nghi lập trường của Charles de Gaulle về vụ Algéria.

Kết cuộc thì năm năm sau vụ khủng bố, ba năm sau vụ Iraq, truyền thông và dân Mỹ ở khắp nơi đều nói đến Iraq và tương lai của cuộc chiến chống khủng bố nhưng giới lãnh đạo tại Thủ đô vẫn… một ngày như mọi ngày, thao dợt chính trị cho chân trời 2008. Mà không có một chương trình hành động gì về Iraq khả dĩ những người hữu trách có thể tìm hiểu và phân tách lẽ hơn thua.

May ra, khi nhóm nghiên cứu Iraq Study Group trình bày đề nghị của họ như quăng cục đá xuống mặt sông Potomac, dư luận Thủ đô sẽ có vài ngày bận rộn việc tranh cãi đúng sai. Rồi đâu lại vào đấy!

Không ai có thể ngờ một sự thể kỳ lạ ấy.

Và nếu người ta quen nói như vỉa hè Sàigon thời xưa, rằng "Mỹ nó đã tính thế này, thế nọ", chúng ta có thể hỏi lại: "Mỹ nào""

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.