Hôm nay,  

Hoa Thịnh Đốn: “Thu Quyến Rũ”

11/29/200700:00:00(View: 9051)

Hình ảnh mùa thu vùng Hoa Thịnh Đốn.

Hoa Thịnh Đốn.- Bây giờ đang là mùa Thu ở Hoa Thịnh Đốn, lá trổ màu vàng, đỏ, cam,  nâu thật tươi đẹp. Buổi sáng có nhiều sương mù, cảnh vật mờ ảo, đẹp như ở Đà Lạt quê hương mình. Buổi trưa có nắng vàng hanh và gió heo may làm rơi rụng lá vàng , thật thơ mộng, làm xao xuyến những tâm hồn nghệ sĩ. 

Nhưng cái đẹp, cái diễm ảo của mùa Thu không phải chỉ ở lá vàng rực rỡ và nhẹ rơi theo  gió,  mà ở tiết Thu và tình Thu, nhờ thế mà mùa Thu là một đề tài rất phong phú trong thi ca,  âm nhạc VN. Tùy  theo sức phong phú của tâm hồn mà các văn  thi sĩ đã sáng tác những vần thơ, những dòng nhạc bất hũ, đi sâu vào lòng người.

Cảnh mùa Thu đẹp nhất ở Virginia là  Skyline Drive, dài hằng trăm  dặm, chạy dọc trên đỉnh  Blue Ridge, trong vùng đồi  núi  Shenandoah. Xa xa là những đồi non và thung lũng chập chùng, cả rừng cây, lá trỗ màu vàng đỏ xen lẫn, đẹp không thể diễn tả.Nhạc sĩ Văn Trí đã viết bài "Hoài Thu” :

“Mùa Thu năm ấy , trên đường đến miền cao nguyên

Đà lạt núi rừng thâm xuyên

Thác ngàn nước bạc thiên nhiên

Chạnh lòng tôi thấy lá vàng rơi nhẹ say mơ

Lưng trời đàn chim bơ vơ…”

 Giữa bồng lai tiên cảnh này, người thường cũng cảm thấy rung cảm bâng khuâng, huống chi nhạc sĩ Cung Tiến:

”Chiều hôm qua lang thang trên đường

Hoàng hôn xuống và gió muôn phương,

Chiều hôm nay nhìn trời mây vươn,

Có nghe lá vàng não nề rơi không"”

(Thu Vàng)

Phạm Mạnh Cương, nhìn lá vàng rơi  khắp lối mà  lòng trào dâng lên một nổi sầu  mênh mông,  xa cách:

“Nhớ ai … chiều Thu, nhìn theo lá úa rơi đầy trên lối

Nhẹ run tà áo, làn môi tươi thắm như cánh hoa đào

Cách xa vì đâu, dù bao lần lá hoa thay màu

Run chi cành hoa lá,  khi tà dương đã khuất non xa…”

 Vào mùa Thu, trong sương mờ hay trong nắng ấm, hình ảnh lá vàng rơi nhẹ   theo từng cơn gió thoảng đủ gợi cho thi nhân những rung cảm  thật nhẹ nhàng, êm ả, tình tứ, lãng mạn. Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên âu yếm,  thì thầm bên người yêu :

“Em có nghe… mùa Thu mưa giăng lá đỗ

Em có nghe… nai vàng hát khúc yêu đương

Và em có nghe …khi mùa Thu tới,

Mang ái ân mang tình yêu tới …tình ta ngất ngây!”

Nói đến những bản nhạc Thu  bất hũ thì  không thể thể nào bỏ qua bài “Giọt Mưa Thu” của Đặng Thế Phong. 

“Ngoài hiên giọt mưa Thu thánh thót rơi

Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi

Nghe gió thoảng mơ hồ

trong mưa Thu ai khóc ai than hờ”.

Cảnh Thu đẹp, nhưng cái đẹp của mùa Thu là  lá vàng, nó làm người ta liên tưởng đến cảnh héo úa, tàn phai, rơi rụng, nên thường những bản nhạc về Thu chứa chất một nỗi buồn man mát, như trong lời ca , tiếng  nhạc   “DDêm Thu”

“Vườn khuya trăng chiếu

Hoa đứng yên như mắt buồn

Lòng ta xao xuyến lắng nghe lời hoa

Cánh hoa vươn buồn trong gió,

Thoáng hương yêu nhẹ nhàng say…  gió lay”

Cảnh Thu cô tịch, cô liêu thường làm người ta hồi tưởng, mơ màn thả hồn  mơ về vùng trời kỷ niệm dấu  yêu. Trong nỗi xót xa của Thu nhung nhớ, Thu đợi chờ, hình ảnh người yêu thoáng  hiện về:

“Em ra đi mùa Thu

Mùa Thu không trở lại

Em ra đi mùa Thu

Sương mờ giăng âm u

*

Em ra đi mùa Thu

Mùa Thu không còn nữa

Đếm lá úa mùa Thu

Dâng sầu ngập tim tôi”

(Mùa Thu không trở lại)

Với những lời  thơ êm dị, trao  chuốt, hai nhạc sĩ  Đoàn Chuẫn và Từ Linh đã để lại cho âm nhạc VN nhiều dòng nhạc Thu đầy rung cảm,  tuyệt vời:

“ Anh mong chờ mùa Thu

Trời đất kia  ngã màu xanh lơ

Đàn  bướm kia đùa vui trên muôn hoa

Bên những bông hồng đẹp xinh”

(Thu Quyến rũ)

Cảnh Thu luôn bị chế ngự bởi vẽ áo não của lá vàng lác đác  rụng rơi trong khí trời se lạnh của gió đầu mùa. Cây cảnh  đìu hiu, nhạt nhòa trong sương khói làm vạn vật như u uất, ngẫn ngơ, càng  gợi cho thi nhân  cảm xúc ngất ngây với nỗi niềm xa cách:”

“Với bao  tà áo xanh đây mùa Thu

Hoa lá tàn hàng cây đứng hững hờ

Lá vàng  từng cánh rơi từng cánh

Rơi xuống âm thầm trên đất xưa”

(Gửi gió cho mây ngàn bay).

“Thu đi cho lá vang bay,

 Lá rơi cho đám cưới về

Ngày mai người em nhỏ bé

Ngồi trên  thuyền hoa

Tình duyên đành dứt

Lá đổ  muôn chiều ôi lá úa…”

(Lá đổ muôn chiều)

Dòng  nhạc Thu của Văn Cao cũng làm say mê lòng người  qua bản nhạc bất hũ “Buồn Tàn Thu”:

“ Ôi vừa  thoáng nghe,

 bước chân chàng

Từ từ xa đường vắng

Đếm mùa Thu chết ,

Nghe mùa đang rớt

Rơi theo lá vàng”

Giữa cảnh vật mờ ảo với sương mù và mây trời ãm đạm,  cảnh Thu cô tịch, êm ả, Thu tím lạnh lẽo hay  Thu vàng quyến rũ,  có lẽ nỗi buồn sâu đậm thầm kín  nhất vẫn là  nỗi lòng héo hon, sầu nhớ mênh mông tới người mình yêu đã ra đi và mãi mãi không bao giờ trở lại:

“Em đã quên mùa Thu, Em đã quên  mùa Thu, Mùa Thu…

Bây bây giờ là mùa Thu, trời vươn khói suơng mù

Hàng cây khô sầu úa, hiu hắt đứng trong mưa

Mưa như lệ tình xưa, lệ thấm mấy cho vừa

Lệ yêu hoa phượng rũ, Em đã quên mùa Thu…”

(Em đã quên  mùa Thu)

Ôi! nghìn trùng xa cách:

”Ta ngắt đi  một chùm hoa thạch thảo

Em nhớ cho mùa Thu đã chết rồi

Mùa Thu đã chết, em  nhớ cho

Mùa Thu đã chết , em nhớ cho

Mùa Thu đã chết , đã chết rồi

Em nhớ cho, Em nhớ cho…

Từ đây mãi mãi,  không thấy nhau

Từ đây mãi mãi,   không thấy nhau

Từ đây mãi mãi …  không thấy nhau…”

(Mùa Thu Chết)

Vâng! Mùa Thu đã đến Hoa Thịnh Đốn, cảnh  Thu ở đây thật quyến rũ, thật nên thơ  với lá vàng rơi và mây trời xanh ngắt. Kính mời quý độc giả thưởng thức một vài hình ảnh mùa Thu ở Hoa Thịnh Đốn và một vài dòng thơ , dòng nhạc bất hũ trong thi ca, âm nhạc Việt Nam .

HÌNH ẢNH MÙA THU Ở HTDD VÀ TRONG THI-NHẠC VN

http://www.youtube.com/watch"v=e_JzvZ2kwxg

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.