Hôm nay,  

Điều Kiện Ắt Có Của Học Viên Tâm Linh Học

28/08/201000:00:00(Xem: 6750)

Điều Kiện Ắt Có Của Học Viên Tâm Linh Học

Phương Chính Nguyễn Quang Đạt
(Annie Besant, trong loạt thuyết trình về sự lập hạnh)
“Điều Kiện Ắt Có Của Học Viên Tâm Linh Học” là một trong những bản dịch rất đặc sắc của cố giáo sư Huỳnh Thanh Nhạn  (cựu giám học trường Gia Long trước năm 1975) từ nguyên bản “A Stage on the Path that Leads to the Masters of Wisdom” của Annie Besant,  mà người viết đã có cơ hội được giáo sư trao tặng để làm tài liệu nghiên cứu. 
  Mặc dầu với số tuổi gần 80, và thân thể suy yếu luôn bị đau đớn bởi chứng bệnh thấp khớp, giáo sư đã để hết tâm huyết trong việc sưu tập, chuyển dịch, biên soạn những tài liệu về tâm linh học cho các hội viên tham  khảo.  Tháng 7 năm 1995, giáo sư đã ra đi trong sự tiếc nhớ và kính yêu của toàn thể hội viên và thân hữu.
Nhận thấy sự giá trị của những bài dịch nhất là công sức mà giáo sư đã ngày đêm gỏ từng nét trên bàn máy chữ để hoàn thành, người viết xin mạn phép được lần lượt phổ biến lại một số ít tài liệu để khỏi phụ lòng mong ước của cố giáo sư.
Điều Kiện Ắt Có Của Học Viên Tâm Linh Học
“Loạt bài này nhắm vào những người đang bị hấp dẫn về siêu hình, những người muốn noi gương các Thầy, tìm đường phục vụ.  Thường thường họ là những người mà trong vô số kiếp trước kia đã được dắt dẫn về bộ môn này; đến nay nhân duyên đưa họ đến gặp một người, một nhóm, một tổ chức cùng nhắm về một hướng.  Lại cũng có những người khác đang được dẫn dắt làm quen với bộ môn này trong kiếp hiện tại và đang dò dẫm các bước đi.  Họ đều cần biết các điều kiện tiên quyết, các tiêu chuẩn tối thiểu  để được chấp nhận nghiên cứu sâu hơn, cũng có thể được dắt dẫn đến hết con đường để hoàn thành ước vọng của mình.
Họ phải là những người có thái độ dứt khoát với điều dữ.  Sự ác trược không được còn lảng vảng trong tâm tư dù chỉ là những bóng lờ mờ.  Họ không lần lựa với cái xấu, cái bất nhân, bất nghĩa, mặc dầu trong khi lần mò tìm con đường chánh họ có thất bại nhiều lần.
Họ phải đặt mục tiêu và hiểu mục tiêu họ nhắm tới.  Công trình khi đã bắt đầu không được bỏ dở dang.  Họ phải chấp nhận cái mục đích của sự học hỏi này:  không mong danh vọng, quyền thế, không mong làm thầy thiên hạ.  Mục đích là sự phục vụ, sự cứu rổi nhân sanh.
Họ cũng phải chấp nhận yếu tố thời gian mà đơn vị là thế kỷ. Không nên tưởng rằng họ có thể được cái đặc ân rút ngắn thời gian vào một kiếp.  Tưởng như vậy là rước thất bại ngay bước đầu.  Như thế họ phải hiểu thấm nhuần về luật Luân Hồi và sự vay trả, trả vay của Tạo Hóa.  Không có gì trong vũ trụ mà bị mất đi, cái tốt cũng như cái xấu.
Thành công nào họ đạt được, họ mang theo từ kiếp này sang kiếp khác, không bị mòn mỏi, không bị thất lạc.  Họ phải công nhận qua trí thức của họ cái bất di bất dịch của các luật thiêng liêng.  Khi khẩn cấp họ gọi đến là được trả lời; khi họ kháng cáo Luật sẽ thẩm định.  Họ không còn ngờ vực sự kiện giống nào sanh quả nấy, và quả này nó có thể gặt hái trong nhiều kiếp sau trong tương lai., khi nào Luật  thấy cần, khi nào thời gian được xét ra là thuận tiện nhứt cho họ và cho nhân loại.  Cho nên họ phải đợi.  Quả chưa chín, họ không vội gặt, giống chưa lên họ bình thản đợi chờ.  Rồi trong kiếp hiện tại họ sẽ làm việc với những vật liệu do họ tự cung cấp từ các đời trước và được Luật gìn giữ nguyên vẹn.  Có bao nhiêu họ làm việc với bấy nhiêu và chỉ bao nhiêu đó thôi, dù ít, dù nhiều, dù phẩm chất cao, dù còn non yếu.  Họ cũng đinh ninh rằng, với bất cứ vật liệu nào rốt cuộc rồi họ cũng sẽ thành công, không phải là có thể thành công mà là chắc chắn thành công, không phải là nhờ vận may mà là sự bảo đảm hẳn hoi.  Từ cái nhỏ nhoi đó, họ cố gắng mỗi ngày một ít, mỗi kiếp mỗi phát triển hơn và mỗi lúc mỗi chắc chắn lên con đường chánh nghĩa.


Họ sẽ biết kiểm soát ý nghĩ, lời nói, việc làm của họ, họ sẽ hiểu năng lực của tư tưởng họ phát xuất và nó có phản động lực gì đối với người đã phát xuất ra nó.  Và đối với thế giới chung quanh mà họ mong phục vụ.  Họ phải biết tư tưởng của họ được gì, giúp được là bao, thêm bao sức mạnh, thanh lọc bao nhiêu.  Như vậy nó chỉ đem sự hữu ích là vì mục tiêu tối hậu của họ là giúp đời.
Họ còn phải biết cách để thông cảm với đồng  loại.  Họ phải biết dùng chánh ngôn, họ phải nói sự thực, không phải cái thực của thế gian (mặc dầu cái thực này không nên chê) mà là cái chính xác, cái trung thực.  Tính trung thực đó đối với một học viên Tâm linh vừa là kim chỉ nam trong sự tu tập, vừa là cái khiên che chở họ phân tách được những ảo tưởng của trần gian.  Họ mến chuộng sự trung thực, tức nhiên họ cũng đắn đo, phân tích những lời của người khác.  Họ chỉ chấp nhận những gì mà lý trí họ chấp nhận để khỏi sa vào các thuyết dị đoan.
Thêm vào đó, lời nói phải dịu dàng, có lễ độ, tuỳ chuyện mà nói, tuỳ người mà nói, tuỳ lúc mà tỏ bày.  Nhưng lúc nào cũng khoan thai, cũng nhẹ nhàng, cũng đầy lòng trắc ẩn khi cần vì sự trung thực nhứt thiết không cần phải làm tổn thương đối tượng.
 Rồi đương nhiên họ sẽ hành động đúng, vì hành động là biểu thị của tư tưởng bên trong.   Khi tư tưởng trong lành, khi phát ngôn có ý tứ, thì hành động chỉ có thể là thanh cao.  Nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng là ba sợi giây buộc kẻ mong theo con đường phục vụ của các Thầy; đó là ba sợi giây vô hình của sự tự chủ, tự kiểm soát trong tư tưởng, lời nói, việc làm.
Các Thầy không phải từ không mà có, các Thầy là những con người, nhưng họ đã biết chế ngự những ý nghĩ tội lỗi, bất chánh.  Họ biết lựa chọn bằng lý trí điều nên làm, điều nên tránh, việc vì trước, việc gì để sau, làm sao cho thuận lòng người, đúng Luật Thiên Nhiên.  Giai đoạn sơ khởi này đòi hỏi người học viên tương lai phải chấn chỉnh tác phong đạo hạnh để nên người có đức độ, nghiêm chỉnh, nghiêm minh, biết tránh điều ác đã đành mà còn phải biết tạo điều thiện, biết giúp đời để lập công bồi đức.  Đây chỉ là giai đoạn đầu như đào móng, đóng cừ, đổ nền chắc chắn cho công cuộc xây dựng toà lâu đài đạo đức.  Sự hiện diện của nhơn sanh tại cõi thế này không phải là ngẫu nhiên hay vô cớ.  Sự kiện đã nằm sẵn trong Luật  định.  Ta phải biết ta từ đâu tới và sẽ đi về đâu.  Tất nhiên là lá sẽ rụng về cội.  Mà con đường trở về này không có vẽ trên các dư đồ quốc tế mà lại ở trong chính cái tâm của con người.  Và đây là đầu đề cho loạt thuyết trình sắp tới.”
Phương Chính Nguyễn Quang Đạt (www.duongsinhthucphap.org)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi thiên tai đổ xuống, thảm họa xảy ra, và con người với khả năng chống đỡ có giới hạn, thì những gì nhân loại có thể làm là cứu nhau. Ngược lại với nguyên tắc tưởng chừng như bất di bất dịch của một thời đại mà con người luôn hướng đến hòa bình và lương thiện, lại là các thuyết âm mưu tạo ra để lan truyền thù ghét và mất niềm tin vào chính quyền đương nhiệm. Đại dịch Covid-19 vĩnh viễn là sự thật của lịch sử Mỹ, trong triều đại của Donald Trump. Tòa Bạch Ốc của Trump lúc ấy, qua lời mô tả của những nhân viên trong ngày dọn dẹp văn phòng làm việc để bắt đầu bước vào giai đoạn “work from home” là “ngôi nhà ma.” Giữa lúc số người chết tăng theo từng giây trên khắp thế giới thì Trump vẫn điên cuồng xoay chuyển “tứ phương tám hướng” để kéo người dân quay về một góc khác của đại dịch, theo ý của Trump: “Covid không nguy hiểm.”
Mặc dù các bác sĩ tâm thần có bổn phận bảo mật các thông tin sức khỏe tâm thần do bệnh nhân tiết lộ, nhưng hầu hết các tiểu bang tại Hoa Kỳ đều có luật bắt buộc hoặc cho phép bác sĩ tâm thần tiết lộ thông tin bí mật khi bệnh nhân có triển vọng gây tổn hại cho cộng đồng...
Trong tuần lễ cuối cùng của chiến dịch tranh cử tổng thống vào năm 1980 giữa Tổng Thống Đảng Jimmy Carter (Dân Chủ) và ứng cử viên Ronald Reagan (Cộng Hòa), hai ứng cử viên đã có một cuộc tranh luận duy nhất vào ngày 28 tháng 10. Trong cuộc tranh luận, Reagan đã nêu ra một trong những câu hỏi quan trọng nhất trong mọi thời đại: “Hôm nay quý vị có khá hơn bốn năm trước hay không?” Câu trả lời của Carter là “KHÔNG." Cùng với một số lý do không kém quan trọng khác, số phiếu của ông đã giảm xuống vào những ngày quan trọng cuối cùng của chiến dịch tranh cử. Reagan đã giành được số phiếu phổ thông lớn và chiến thắng trong cuộc bầu cử.
Nobel là một giải thưởng cao qúy nhưng đó không phải là tất cả hay tối thượng mà, xét cho cùng, mục tiêu của nền văn học quốc gia hay bất cứ lĩnh vực nào khác đâu nhất thiết là hướng tới giải Nobel? Mahatma Gandhi đã năm lần bị bác giải Nobel Hoà Bình nhưng so với một Henry Kissinger hí hửng ôm nửa cái giải ấy vào năm 1973, ai đáng ngưỡng mộ hơn ai? Tuyên ngôn Nobel Văn Chương 1938 vinh danh nhà văn Mỹ Pearl Buck về những tác phẩm “diễn tả xác thực đời sống của nông dân Trung Hoa” nhưng, so với Lỗ Tấn cùng thời, nhà văn không chỉ diễn tả xác thực đời sống mà cả tâm não của người Trung Hoa, ai để lại dư âm lâu dài hơn ai?
Nếu mũ cối là biểu tượng của thực dân Tây phương vào thế kỷ 18 thì, bây giờ, “năng lượng tích cực”, như là diễn ngôn của thực dân Đại Hán với những dấu ấn đậm nét của tân hoàng đế Tập Cận Bình, đã trở nên gắn bó với người Việt, từ diễn ngôn của thể chế cho đến giọng điệu ngôn tình của những đôi lứa bỡ ngỡ trước ngưỡng cửa hôn nhân.
AI là trí tuệ nhân tạo. AI là một kho kiến thức nhiều vô cùng vô tận, đã siêu xuất chứa đựng nhiều thư viện nhân loại hơn bất kỳ dữ liệu tri thức nào, và cứ mỗi ngày AI lại mang thêm nhiều công năng hữu dụng, mà một người đời thường không thể nào có nổi kho tri thức đó. Trong khi đó, Thầy Tuệ Sỹ là một nhà sư phi thường của dân tộc, với những tri kiến và hồn thơ (như dường) phong phú hơn bất kỳ nhà sư nào đã từng có của dân tộc Việt. Câu hỏi là, AI có thể biểu hiện như một Tuệ Sỹ hay không? Chúng ta có thể gặp lại một phong cách độc đáo của Tuệ Sỹ trong AI hay không? Thử nghiệm sau đây cho thấy AI không thể sáng tác được những câu đối cực kỳ thơ mộng như Thầy Tuệ Sỹ. Để thanh minh trước, người viết không phải là khoa học gia để có thể hiểu được vận hành của AI. Người viết bản thân cũng không phải học giả về kho tàng Kinh Phật để có thể đo lường sự uyên áo của Thầy Tuệ Sỹ.
Israel và Iran đã âm thầm chống nhau trong một thời gian dài. Nhưng nhiều diễn biến sôi động liên tục xảy ra gần đây làm cho xung đột giữa hai nước leo thang và chiến tranh có nguy cơ bùng nổ và lan rộng ra toàn khu vực. Điển hình là vào tháng 4 năm nay, Iran công khai tấn công bằng tên lửa vào lãnh thổ Israel. Đầu tháng 10, Israel đã tấn công bằng bộ binh ở miền nam Lebanon. Trước đó, trong cuộc không kích vào trụ sở dân quân Hezbollah ở Beirut, Israel đã tiêu diệt thủ lĩnh Hezbollah là Hassan Nasrallah và nhiều nhân vật quan trọng khác.
Nhà báo Cù Mai Công vừa lên tiếng nhắc nhở đồng nghiệp (“Ráng Xài Tiếng Việt Cho Đúng, Xài Bậy, Dân Họ Cười Cho”) vào hôm 6 tháng 9 vừa qua. Ông dùng tựa một bản tin của báo Dân Trí (“Hai Kịch Bản Siêu Bão Yagi Tác Động Đến Đất Liền”) như một thí dụ tiêu biểu: “Trong toàn bộ các tự điển tiếng Việt xưa nay, ‘kịch bản’ nguyên nghĩa là bản viết cho một vở kịch, sau có thể mở rộng thành văn bản, bản thảo về nội dung cho một phim truyền hình, quảng cáo, phim ảnh, gameshow…
Trong nhiều ngày qua, Donald Trump và Cộng Hòa MAGA tung rất nhiều tin giả hay bóp méo và nhiều thuyết âm mưu liên quan đến cơn bão lụt Helene một cách có hệ thống. Mục đích để hạ đối thủ Kamala Harris và Đảng Dân Chủ. Theo tường thuật của CNN vào ngày 6/10, Cựu Tổng thống Donald Trump đã đưa ra hàng loạt lời dối trá và xuyên tạc về phản ứng của liên bang đối với cơn bão Helene. Theo MSNBC, “Những lời dối trá đó đã được khuếch đại bởi những người như tỷ phú Elon Musk, nhà lý luận âm mưu chuyên nghiệp Alex Jones và ứng cử viên Đảng Cộng hòa đang dính nhiều bê bối cho chức thống đốc Bắc Carolina, Mark Robinson. Dân biểu Marjorie Taylor Greene, một đồng minh trung thành của Trump.” Ngay cả Hùng Cao, một nhân vật MAGA mới bước vào chính trường cũng góp phần vào việc nấu nồi canh hẹ này.
“Luật Phòng Chống tham nhũng ở Việt Nam năm 2005 nêu rõ: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.