Hôm nay,  

Điều Kiện Ắt Có Của Học Viên Tâm Linh Học

28/08/201000:00:00(Xem: 6747)

Điều Kiện Ắt Có Của Học Viên Tâm Linh Học

Phương Chính Nguyễn Quang Đạt
(Annie Besant, trong loạt thuyết trình về sự lập hạnh)
“Điều Kiện Ắt Có Của Học Viên Tâm Linh Học” là một trong những bản dịch rất đặc sắc của cố giáo sư Huỳnh Thanh Nhạn  (cựu giám học trường Gia Long trước năm 1975) từ nguyên bản “A Stage on the Path that Leads to the Masters of Wisdom” của Annie Besant,  mà người viết đã có cơ hội được giáo sư trao tặng để làm tài liệu nghiên cứu. 
  Mặc dầu với số tuổi gần 80, và thân thể suy yếu luôn bị đau đớn bởi chứng bệnh thấp khớp, giáo sư đã để hết tâm huyết trong việc sưu tập, chuyển dịch, biên soạn những tài liệu về tâm linh học cho các hội viên tham  khảo.  Tháng 7 năm 1995, giáo sư đã ra đi trong sự tiếc nhớ và kính yêu của toàn thể hội viên và thân hữu.
Nhận thấy sự giá trị của những bài dịch nhất là công sức mà giáo sư đã ngày đêm gỏ từng nét trên bàn máy chữ để hoàn thành, người viết xin mạn phép được lần lượt phổ biến lại một số ít tài liệu để khỏi phụ lòng mong ước của cố giáo sư.
Điều Kiện Ắt Có Của Học Viên Tâm Linh Học
“Loạt bài này nhắm vào những người đang bị hấp dẫn về siêu hình, những người muốn noi gương các Thầy, tìm đường phục vụ.  Thường thường họ là những người mà trong vô số kiếp trước kia đã được dắt dẫn về bộ môn này; đến nay nhân duyên đưa họ đến gặp một người, một nhóm, một tổ chức cùng nhắm về một hướng.  Lại cũng có những người khác đang được dẫn dắt làm quen với bộ môn này trong kiếp hiện tại và đang dò dẫm các bước đi.  Họ đều cần biết các điều kiện tiên quyết, các tiêu chuẩn tối thiểu  để được chấp nhận nghiên cứu sâu hơn, cũng có thể được dắt dẫn đến hết con đường để hoàn thành ước vọng của mình.
Họ phải là những người có thái độ dứt khoát với điều dữ.  Sự ác trược không được còn lảng vảng trong tâm tư dù chỉ là những bóng lờ mờ.  Họ không lần lựa với cái xấu, cái bất nhân, bất nghĩa, mặc dầu trong khi lần mò tìm con đường chánh họ có thất bại nhiều lần.
Họ phải đặt mục tiêu và hiểu mục tiêu họ nhắm tới.  Công trình khi đã bắt đầu không được bỏ dở dang.  Họ phải chấp nhận cái mục đích của sự học hỏi này:  không mong danh vọng, quyền thế, không mong làm thầy thiên hạ.  Mục đích là sự phục vụ, sự cứu rổi nhân sanh.
Họ cũng phải chấp nhận yếu tố thời gian mà đơn vị là thế kỷ. Không nên tưởng rằng họ có thể được cái đặc ân rút ngắn thời gian vào một kiếp.  Tưởng như vậy là rước thất bại ngay bước đầu.  Như thế họ phải hiểu thấm nhuần về luật Luân Hồi và sự vay trả, trả vay của Tạo Hóa.  Không có gì trong vũ trụ mà bị mất đi, cái tốt cũng như cái xấu.
Thành công nào họ đạt được, họ mang theo từ kiếp này sang kiếp khác, không bị mòn mỏi, không bị thất lạc.  Họ phải công nhận qua trí thức của họ cái bất di bất dịch của các luật thiêng liêng.  Khi khẩn cấp họ gọi đến là được trả lời; khi họ kháng cáo Luật sẽ thẩm định.  Họ không còn ngờ vực sự kiện giống nào sanh quả nấy, và quả này nó có thể gặt hái trong nhiều kiếp sau trong tương lai., khi nào Luật  thấy cần, khi nào thời gian được xét ra là thuận tiện nhứt cho họ và cho nhân loại.  Cho nên họ phải đợi.  Quả chưa chín, họ không vội gặt, giống chưa lên họ bình thản đợi chờ.  Rồi trong kiếp hiện tại họ sẽ làm việc với những vật liệu do họ tự cung cấp từ các đời trước và được Luật gìn giữ nguyên vẹn.  Có bao nhiêu họ làm việc với bấy nhiêu và chỉ bao nhiêu đó thôi, dù ít, dù nhiều, dù phẩm chất cao, dù còn non yếu.  Họ cũng đinh ninh rằng, với bất cứ vật liệu nào rốt cuộc rồi họ cũng sẽ thành công, không phải là có thể thành công mà là chắc chắn thành công, không phải là nhờ vận may mà là sự bảo đảm hẳn hoi.  Từ cái nhỏ nhoi đó, họ cố gắng mỗi ngày một ít, mỗi kiếp mỗi phát triển hơn và mỗi lúc mỗi chắc chắn lên con đường chánh nghĩa.


Họ sẽ biết kiểm soát ý nghĩ, lời nói, việc làm của họ, họ sẽ hiểu năng lực của tư tưởng họ phát xuất và nó có phản động lực gì đối với người đã phát xuất ra nó.  Và đối với thế giới chung quanh mà họ mong phục vụ.  Họ phải biết tư tưởng của họ được gì, giúp được là bao, thêm bao sức mạnh, thanh lọc bao nhiêu.  Như vậy nó chỉ đem sự hữu ích là vì mục tiêu tối hậu của họ là giúp đời.
Họ còn phải biết cách để thông cảm với đồng  loại.  Họ phải biết dùng chánh ngôn, họ phải nói sự thực, không phải cái thực của thế gian (mặc dầu cái thực này không nên chê) mà là cái chính xác, cái trung thực.  Tính trung thực đó đối với một học viên Tâm linh vừa là kim chỉ nam trong sự tu tập, vừa là cái khiên che chở họ phân tách được những ảo tưởng của trần gian.  Họ mến chuộng sự trung thực, tức nhiên họ cũng đắn đo, phân tích những lời của người khác.  Họ chỉ chấp nhận những gì mà lý trí họ chấp nhận để khỏi sa vào các thuyết dị đoan.
Thêm vào đó, lời nói phải dịu dàng, có lễ độ, tuỳ chuyện mà nói, tuỳ người mà nói, tuỳ lúc mà tỏ bày.  Nhưng lúc nào cũng khoan thai, cũng nhẹ nhàng, cũng đầy lòng trắc ẩn khi cần vì sự trung thực nhứt thiết không cần phải làm tổn thương đối tượng.
 Rồi đương nhiên họ sẽ hành động đúng, vì hành động là biểu thị của tư tưởng bên trong.   Khi tư tưởng trong lành, khi phát ngôn có ý tứ, thì hành động chỉ có thể là thanh cao.  Nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng là ba sợi giây buộc kẻ mong theo con đường phục vụ của các Thầy; đó là ba sợi giây vô hình của sự tự chủ, tự kiểm soát trong tư tưởng, lời nói, việc làm.
Các Thầy không phải từ không mà có, các Thầy là những con người, nhưng họ đã biết chế ngự những ý nghĩ tội lỗi, bất chánh.  Họ biết lựa chọn bằng lý trí điều nên làm, điều nên tránh, việc vì trước, việc gì để sau, làm sao cho thuận lòng người, đúng Luật Thiên Nhiên.  Giai đoạn sơ khởi này đòi hỏi người học viên tương lai phải chấn chỉnh tác phong đạo hạnh để nên người có đức độ, nghiêm chỉnh, nghiêm minh, biết tránh điều ác đã đành mà còn phải biết tạo điều thiện, biết giúp đời để lập công bồi đức.  Đây chỉ là giai đoạn đầu như đào móng, đóng cừ, đổ nền chắc chắn cho công cuộc xây dựng toà lâu đài đạo đức.  Sự hiện diện của nhơn sanh tại cõi thế này không phải là ngẫu nhiên hay vô cớ.  Sự kiện đã nằm sẵn trong Luật  định.  Ta phải biết ta từ đâu tới và sẽ đi về đâu.  Tất nhiên là lá sẽ rụng về cội.  Mà con đường trở về này không có vẽ trên các dư đồ quốc tế mà lại ở trong chính cái tâm của con người.  Và đây là đầu đề cho loạt thuyết trình sắp tới.”
Phương Chính Nguyễn Quang Đạt (www.duongsinhthucphap.org)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ khi tổ chức khủng bố Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, các vụ xung đột đẫm máu xảy tại Dải Gaza cho đến nay vẫn chưa kết thúc. Nhưng gần đây, cộng đồng quốc tế còn tỏ ra lo ngại nhiều hơn khi giao tranh giữa Israel và lực lượng dân quân Hezbollah ở Lebanon đang gia tăng. Bằng chứng là sau cái chết của thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya và thủ lĩnh Hezbollah Hassan Nasrallah, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Trong vài tháng qua, người dân Mỹ, dù muốn hay không muốn, cũng đã có nhiều cơ hội để nhìn về một bức tranh mà trong đó có quá nhiều sự tương phản. Những mảnh ghép từ hai tầm nhìn, hai chiến lược, hai mục đích hoàn toàn khác biệt đã dần dần rơi xuống, để lộ ra hai con đường hoàn toàn khác biệt cho người Mỹ lựa chọn. Dù có một bức màn đã rơi xuống (như nữ hoàng Oprah Winfrey đã ví von) cho một thuyền trưởng bước ra, trao lại cho người dân sự hy vọng, lòng tin, trách nhiệm, thì sâu thẳm bên trong chúng ta vẫn muốn biết, những giá trị thực của một triều đại đã mang lại. Từ đó, niềm tin sẽ được củng cố.
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.