Hôm nay,  

Amen

30/12/201000:00:00(Xem: 7990)

Amen

Trần Văn Giang
Lời mở đầu:
Mùa lễ giáng sinh vừa qua, đi lễ đêm với gia đình, sau khi tan lễ,  trên đường về, trong đầu tôi vẫn  còn văng vẳng những câu kinh và bài giảng phúc âm của buổi lễ khá trang trọng…  và một chữ rất quen thuộc vẫn còn vọng lại từ trong tâm thức. Đó là chữ “Amen.”
Nhìn lại, tôi đã đi lễ cuối tuần cùng với vợ con đã vài chục năm…  đã nghe trên ngàn bài giảng phúc âm; và cũng  nghe, đọc chữ “Amen” đến trên vài ngàn lần mà thật sự chính cá nhân tôi chỉ hiểu lờ mờ ý nghĩa của chữ “Amen.”  Hôm nay có lẽ vì trời California mưa to gió lớn, tôi cắc cớ  hỏi bà cụ tôi, cụ  đã 83 tuổi và đi lễ, đọc kinh cá nhân hay đọc kinh nhóm cùng với các cụ cao niên khác gần như mỗi ngày, về ý nghĩa của chữ “Amen,” Cụ nhìn tôi hơi lạ (có lẽ cụ nghĩ là tôi ấm đầu!) rồi thú thật với tôi là: “Má cũng không rõ.  Để má hỏi lại các Cha cho biết!”
Trong khi chờ đợi câu trả lời “chính qui” của các vị linh mục, tôi dành chút thời giờ sưu lục và viết một bài khảo luận bỏ túi này; mong rằng sẽ đóng góp một hay hai lời giải nghĩa khả dĩ cho chữ “Amen;” Đồng thời cũng xin quí vị quan tâm bổ túc cho ý nghĩa của chữ này được sáng sủa thêm…
TVG
*   
“ ‘Amen’ nghĩa là gì" Và tại sao chữ ‘Amen’ lại được đọc và nghe rất nhiều trong thánh kinh cũng như trong các buổi lễ của Thiên chúa giáo"”
Đầu tiên, chữ “Amen” vì nghe quá quen thuộc làm chúng ta nghĩ là mọi người theo đạo Thiên chúa (Christians) đều biết ý nghĩa của nó!  Sự thật tôi thấy không phải như vậy.  Nhiều người đi lễ nhà thờ thường xuyên vẫn chỉ hiểu chữ “Amen” một cách lờ mờ, đại khái, qua loa… thành thử có nhiều trường hợp chữ “Amen” vô tình bị “lạm dụng;”  có khi lại còn bị hiểu sai nghĩa (là “xin hết / xin chấm dứt” chẳng hạn) mới chết!
Chữ “Amen” nguyên thủy xuất phát từ tiếng “Berber,” một thổ ngữ của Hebrew (tiếng Do thái), nhưng lại được phổ biến rộng rãi trong các ngôn ngữ khác như Hy lạp, La-tinh, Anh ngữ, Pháp ngữ, tiếng Tây ban nha; và nhiều ngoại ngữ khác của các dân tộc có văn hóa không sính (") với Thiên chúa giáo như tiếng Ai cập (“Amen-Ra,” “Amun,” Amounra,” “Amon”), Tây tạng (“Amen”), Ả rập (“Amin”), tiếng Phạn (Hindu Sanskrit – “Aum”)…  
Chữ “Amen” thấy rất nhiều trong cả Kinh Cựu Ứơc và Tân Ứơc; nhưng lại có nhiều ý nghĩa khác nhau tùy vào nội dung của mỗi câu kinh. Phần lớn các nhà thần học đồng ý là, theo tiếng Do thái, chữ “Amen” biến thể từ một chữ gốc là “Aman” có nghĩa là:
“Xác nhận” (“confirm”) một “Chân lý” (verily / truly) “Vĩnh cửu” (“solid in the sense permanency”).
Theo tài liệu khảo cứu, họ quả quyết là chữ “Amen” hoàn toàn phát xuất từ tiếng Do thái (nguyên văn: “It is a pure Hebrew word”).
Nói một cách tổng quát, “Amen” có nghĩa là:
“Với lòng thành; là chân lý, vĩnh cửu.” 
Mỗi khi chữ “Amen” xuất hiện trong thánh kinh, thường ở cuối một câu kinh, để xác nhận một sự thật, một chân lý vĩnh cửu.
Thật lạ, khi truy nguyên gốc của sự sử dụng chữ “Amen” trong Kinh Tân Ứơc, chính Đức Chúa Giê-su trong nhiều trường hợp, thường bắt đầu lời giảng của Người bằng cách lập lại chữ “Amen / Verily” hai lần (chẳng hạn “Amen, Amen,..”) để nhắc nhở cho mọi người rằng lời của Chúa là tuyệt đối đúng (“absolute certainty”) chứ không phải như chỉ thấy ghi một lần ở cuối câu giảng như chúng ta vẫn nghe; và vẫn đọc.
Thí dụ:
“Amen, Amen, Thầy nói cho các con biết là nếu người nào trong các con nhớ lời của Thầy sẽ sống đời đời” (“Verily, verily, I say unto you, if a man keep my saying, he shall never see death…”) (John 8:51). 
Hoặc là lời Chúa Giê-su nói với Thánh Phao-lồ:
“Anh bảo anh sẽ thí mạng cho Thầy" Amen, Amen., Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần” (“Will you lay down your life for my sake"  Verily, verily, I say onto you, the cock shall not crow, till thou hast denied me thrice.”) (John 13:38).
Nếu so sánh bài giảng đã ghi là “Thầy bảo thật các con” (“Verily (“Amen”), I say onto you….”) (Mark 9:1) bởi Thánh Mark nhưng Thánh Luke lại dịch là “Thầy bảo thật các con” (“But I tell you of “Truth”) (Luke 9:27); Như vậy chúng ta thấy chữ “Amen” là ẩn dụ của chữ “Truth  / Verity.”  Chữ “Verily” (có nghĩa là “Truly,” “Truthfully”) đã được dịch nghĩa theo đúng chữ Do thái là “Amen.”  Lời Chúa Gie-su có thể được viết lại là: “Bằng lời THẬT, Thầy nói với các con là…” (Of a truth / truthfully, I say onto you…).  Thành ra có thể dịch “Amen,” là “Verily,” “Truly,” hay “Truthfully” và ngược lại…
Để hiểu thêm về nghĩa của chữ “Amen,”  chúng ta có thể đọc lại lời Chúa trong các câu kinh khác khác đã dùng chữ “Amen” một cách rất lý thú.  Chẳng hạn:
- Ngôn sứ Jeremirah thay vì dùng “Amen, Amen” (2 lần), Ngôn sứ lại thay thế chữ “Amen” thứ hai bằng một câu, thành ra: “Amen, Ứơc gì Đức Chúa làm như thế…” (“Amen, the Lord do so…”) (Jer 28:6)
- Trong sách I-Sai-A, có một danh xưng của Chúa là: “Thiên Chúa Chân Thật” (“God of Truth”).  Tín hữu Thiên chúa giáo khi đọc kinh lại bỏ chữ cuối (“Truth”) và thay bằng chữ “Amen” (“God of Amen”) (Isaiah 65:16).
- Trong sách “Sử Niên Biên quyền 2” (The Second book of the Chronicles) Thánh Phao-lồ đã nói về Chúa Giê-su như sau:
“Mọi lời hứa của Chúa đều ‘có’ nơi Người ‘Amen’ ” (“For as many as may be the promises of God, in him they are ‘yes’ and in him ‘Amen.’ “) (2Co 1:20)


-  Trong sách Khải Huyền (Book of Revelation) một danh xưng khác của Chúa Giê-su là: “Đấng Amen, Chứng Nhân Trung Thành và Chân Thật” (“The Amen, the Faithful and True witness”) (Rev 3:14).
Như vậy, khi chúng ta nói hay đọc “Amen,” là chúng ta muốn nói:
“Trước mặt Thiên chúa, con xin đồng ý như vậy;
Hoặc là:
“Con tin là sự thật / là chân lý;”
Hoặc là:
“Con luôn luôn mong muốn như vậy.”
Tất cả giống như một lời thề thật trang nghiêm trước mặt Chúa - long trọng và đứng đắn chứ không phải chuyện bỡn, qua loa !
Để cho trọn vẹn theo nghĩa truyền thông hai chiều, tôi xin trình bày thêm vài quan điểm của nhiều nhà thần học thuộc nhóm phản kháng (-con) và một số nhà Ai-câp học (Egyptologist).  Họ phản bác và cho là chữ “Amen” không phải phát xuất từ tiếng Do thái (Hebrew) mà từ tiếng Ai cập (Egyptian origin) – theo tên một vị thần cổ Ai cập là tên “Ammon” hay “Amoun” (Thần Vô hình, Ẩn thần - “the Hidden One,”  “the Hidden God.”).
Họ cho rằng nếu chúng ta để ý thật kỹ (") vào một số câu trong thánh kinh Thiên chúa giáo đã mô tả Đức Chúa Giê-su (both person and spririt) thì thấy là tương tự như người Ai cập đã mô tả và tôn thờ vị “Ẩn thần” (The Hidden One) của họ từ trước Thiên chúa giáng sinh:
Timothy 6: 16
“Chỉ mình Người là đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã  hay có thể thấy: Kính dâng Người danh dự và uy quyền muôn đời. Amen.”
(Who only hath immortality, dwelling in the light which no man can approach unto; whom no man hath seen, nor can see: to whom be honour and power everlasting. Amen).
Revelation (Sách Khải Huyền) 1: 7
“Kìa Người ngự đến giữa đám mây.  Ai nấy sẽ thấy Người, ngay kẻ đã đâm người.  Mọi dân trên mặt đất sẽ than khóc khi thấy Người.  Đúng thế. Amen.”
(Behold, he cometh with clouds; and every eye shall see him, and they also which pierced him: and all kindreds of the earth shall wail because of him. Even so, Amen).
Revelation 1: 18
“Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống muôn đời.  Amen, Ta giữ chìa khóa của Âm phủ và Tử Thần.”
(I am he that liveth, and was dead; and, behold, I am alive for evermore, Amen; and have the keys of hell and of death).
Revelation 3: 14
“Hãy viết cho thiên thần hội thánh Laodikia: Đây là lời của Đấng Amen, là Chứng Nhân trung thành và chân thật, là khởi nguyên của mọi loài Thiên chúa tạo dựng.”
(And unto the angel of the church of the Laodiceans write; These things saith the Amen, the faithful and true witness, the beginning of the creation of God).
Revelation 7: 12
“Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời ! Amen.”
(Saying, Amen: Blessing, and glory, and wisdom, and thanksgiving, and honour, and power, and might, be unto our God for ever and ever. Amen).
Revelation 19: 4
“Bấy giờ hai mươi bốn vị kỳ mụcvà bốn con vật phủ phục xuống thờ lậy Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai mà tung hô: Amen! Ha-lê-lui-a.”
(And the four and twenty elders and the four beasts fell down and worshipped God that sat on the throne, saying, Amen; Alleluia).
Revelation 22: 21 (cũng là lời cuối cùng của quyển Thánh Kinh)
“Chúc mọi người được ân sủng của Chúa Gie-su. Amen.”
(The grace of our Lord Jesus Christ be with you all. Amen).
Ngoài ra, nhóm thần học phản kháng này còn cho là Thiên chúa giáo biến thể từ đạo của những người Do thái sống theo văn hóa Hy lạp (hellenistic Jews  -  tuy không phải là người Hy lạp!) vừa thờ phụng các thần Babylon và thờ cả thần của Ai cập"! Vì vậy chữ “Amen” có nguồn gốc từ chữ của Ai-cập cũng không phải là vô cớ! Và còn đi xa hơn nữa, họ cho rằng tín hữu Thiên chúa giáo khi đọc chữ “Amen” là đã vô tình ngưỡng mộ, thờ phụng “Ẩn thần” (“The Hidden One”) của Ai-cập """
Bây giờ trở lại Thiên chúa giáo lề phải…
Bình thân, tín hữu Thiên chúa giáo chúng ta thường bận tâm và lo sợ sẽ mất tiền mất của…  thay vì quan tâm đến phần hồn và đấng cứu thế.  Chúng ta cần phải được nhắc nhở hàng ngày về việc này qua chữ “Amen.”
Chữ và câu /nhóm chữ của ngôn ngữ đã thay đổi theo thời gian.  Mỗi dân tộc sẽ tùy tiện thay đổi các chữ của họ theo các mục đích riêng… nhưng chữ “Amen” mặc dù chưa có một lời giải nghĩa duy nhất nào được nhìn nhận là trọn vẹn, “chính xác,” nhưng chữ “Amen” vẫn còn nguyên vẹn qua hàng chục thế kỷ như thể được Thiên Chúa toàn năng bảo vệ.
Xin Chúa rộng lượng xót thương, dẫn dắt chúng con đến chân lý và thấu hiểu cặn kẽ chữ “Amen” thiêng liêng của Chúa (the Holy Word of God).
Tôi xin phép mượn một câu trong “Thư của Thánh Phao-lồ gởi tín hữu Rô ma” để kết thúc bài này:
“Vì muôn vật đều do Người mà có; nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người.  Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! AMEN.”
(For of him, and through him, and to him, are all things; to whom be glory for ever. AMEN.” (Romans 11:36)
Trần Văn Giang
Orange County 12/29/2010
_____
Tài liệu Tham khảo:
- Kinh Thánh Việt ngữ  (Trọn bộ Cựu Ứơc và Tân Ước )- Phát hành bởi Tòa Tổng Giám Mục Thành Phố Sài gòn, 1998.
- The Holy Bible (Old and New Testaments) in the King James Version, Red letter Edition - Publisher Thomas Nelson, NY, 1970.
- Wikipedia – the free encyclopedia.
-  … và một số lời bàn rải rác lượm trên mạng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngược lại, những biến cố dồn dập đủ loại trong COVID-19 mở ra cuộc đấu tranh chính trị mới: đòi quyền được sống còn, có thuốc trị cho tất cả, đi lại an toàn, đó là một cái gì thiết thực trong đời sống hằng ngày và không còn chờ đợi được chính quyền ban phát ân huệ; nó khiến cho người dân có ý thức là trong các vấn đề nội chính, cải tổ chế độ là cần ưu tiên giải quyết. Người dân không còn muốn thấy vết nhơ của Đồng Tâm hay tiếp tục qùy lạy van xin, thì không còn cách nào khác hơn là phải có ý thức phản tỉnh để so sánh về các giá trị tự do cơ bản này và hành động trong gạn lọc. Tình hình chung trong việc chống dịch là bi quan và triển vọng phục hồi còn đấy bất trắc. Nhưng đó là một khởi đầu cho các nỗ lực kế tiếp. Trong lâu dài, dân chủ hoá là xu thế mà Việt Nam không thể tránh khỏi. Cải cách định chế chính trị và đào tạo cho con người để thích nghi không là một ý thức riêng cho những người quan tâm chính sự mà là của toàn dân muốn bảo vệ sức khoẻ, công ăn việc làm
Trong vài thập niên vừa qua, giải Nobel Hòa Bình và Văn Chương được xem là một tuyên ngôn của ủy ban giải Nobel về các vấn đề thời cuộc quan trọng trong (những) năm trước và năm 2021 này cũng không là ngoại lệ. Giải Nobel Văn Chương năm nay được trao cho nhà văn lưu vong gốc Tazania - một quốc gia Châu Phi, là Abdulrazak Gurnah "vì sự thẩm thấu kiên định và bác ái của ông đối với những ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân và số phận của những người tị nạn trong vực sâu ngăn cách giữa các nền văn hóa và lục địa". Cũng vậy, giải Nobel Hoà Bình đã dành cho hai ký giả Maria Ressa của Phi Luật Tân và Dmitry Muratov của Nga "vì những nỗ lực bảo vệ sự tự do ngôn luận, vốn là điều kiện tiên quyết cho nền dân chủ và sự hòa bình lâu dài". Ủy ban Nobel Hòa Bình Na Uy còn nói thêm rằng, "họ đại diện cho tất cả các ký giả đang tranh đấu cho lý tưởng này, trong một thế giới mà nền dân chủ và tự do báo chí đang đối mặt với những điều kiện ngày càng bất lợi" và cho "nền báo chí tự do, độc lập
Sau đó, sau khi “phát khóc” và lau nước mắt/nước mũi xong, bác Hồ liền thỉnh ngay bác Lê về thờ nên mới có Suối Lê Nin (với Núi Các Mác) cùng hình ảnh – cũng như tượng đài – của cả hai ông trưng bầy khắp mọi nơi, để lập ra một tôn giáo mới, thay thế cho Phật/Chúa/Thánh Thần/Ông Bà/Tiên Tổ ... các thứ.
Sự nghiệp chính trị của đại đế Nã-Phá-Luân chẳng liên hệ gì nhiều đến Trung Quốc nên không biết tại sao ông nổi hứng tuyên bố một câu bất hủ mà giờ này có giá trị của một lời tiên tri “Hãy để Trung Hoa ngủ yên bởi vì khi tỉnh giấc nó sẽ làm rung chuyển thế giới.” Vào tháng 03/1978 có một sự kiện ít được biết đến nhưng bắt đầu lay thức gã khổng lồ Trung Quốc khi một hợp tác xã nông nghiệp ở Phúc Kiến xin phép được giữ lại phần sản xuất vượt chỉ tiêu để khuyến khích nông dân hăng hái làm việc. Đây là giai đoạn trước Đổi Mới nên viên thư ký đảng bộ của hợp tác xã bị phê bình kiểm điểm. Chỉ 8 tháng sau đó vào cuối năm 1978 Đặng Tiểu Bình tuyên bố cải tổ và mở cửa nền kinh tế. Đề nghị nói trên của hợp tác xã được mang ra thử nghiệm với kết quả sáng chói nên viên thư ký đảng được ban khen.
Sau 10 năm ra sức Xây dựng, chỉnh đốn hàng ngũ để bảo vệ đảng không tan, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn thừa nhận: ”Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách căn bản, thậm chí có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường.”
Nếu mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ là một ván bài, thì người Mỹ sẽ nhận ra rằng họ đã được một lá bài tốt và tránh khuất phục trước nỗi sợ hãi hay niềm tin vào sự suy tàn của Hoa Kỳ. Nhưng ngay cả một lá bài tốt cũng có thể thua, nếu chơi tệ. Khi chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden thực hiện chiến lược cạnh tranh đại cường với Trung Quốc, các nhà phân tích tìm các phép ẩn dụ trong lịch sử để giải thích tình trạng cạnh tranh ngày càng sâu sắc. Nhưng trong khi nhiều người dựa vào sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh, thì một ẩn dụ lịch sử đáng lo ngại hơn là sự bắt đầu của Thế chiến thứ nhất. Năm 1914, tất cả các cường quốc đều mong rằng cuộc chiến Balkan lần thứ ba là ngắn ngủi. Thay vào đó, như nhà sử học người Anh Christopher Clark đã chỉ ra rằng, các cường quốc bị mộng du bước vào một trận đại chiến kéo dài bốn năm, phá hủy bốn đế chế và giết chết hàng triệu người.
“Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân chúng ta và cho cả hành tinh này là lật ngược lại toàn bộ suy nghĩ ấy. Pema Chodron đã chỉ cho chúng ta thấy mặt cấp tiến của đạo Phật.”
Năm 1964, anh Phạm Công Thiện được mời vào Sài Gòn để dạy triết Tây tại Viện cao đẳng Phật học vừa được mở tại chùa Pháp Hội (tiền thân của Viện Đại học Vạn Hạnh sau này), tôi được anh cho đi theo. Tôi nhớ anh đã dẫn tôi đến thăm Bùi Giáng vào một buổi chiều, trong một căn nhà ở hẻm Trương Minh Giảng, căn nhà rất ẩm thấp, chật hẹp, gần như không có chỗ cho khách ngồi.
Cố nhớ kỹ lại, tôi vẫn không nghĩ ra là tôi đã gặp thầy Phước An lần đầu vào dịp nào (dĩ nhiên là ở Vạn Hạnh, trong năm 1972, nhưng trong hoàn cảnh nào?). Chỉ nhớ rằng quen nhiều và thân với thầy lắm. Phòng 317 Nội Xá Vạn Hạnh là phòng ở của quý thầy trẻ, là những người tôi rất thân, và đây là một phòng mà tôi có thể ra vào bất cứ lúc nào.
Ba bà Mai kể trên thuộc hai thế hệ. Cả ba đều đã trải qua một kiếp nhân sinh mà “phẩm giá” người dân bị chà đạp một cách rất tự nhiên.” Nếu may mắn mà “CNXH có thể hoàn thiện ở Việt Nam” vào cuối thế kỷ này, như kỳ vọng của ông TBT Nguyễn Phú Trọng, chả hiểu sẽ cần thêm bao nhiêu bà Mai phải (tiếp tục) sống “với tâm thức khốn cùng” như thế nữa?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.