Hôm nay,  

Công Chúa Liễu-Hạnh

02/04/201100:00:00(Xem: 12321)
Công Chúa Liễu-Hạnh
cong_chua_lieu_hanh-large-contentLiễu-Hạnh Công-Chúa.
Diamond Bích Ngọc
Từ 1997 đến 2000. Suốt ba năm liền tôi được Trời thương cho có điều-kiện đi về Việt-Nam làm phim tài-liệu. Bước chân tôi đã ghi dấu trên từng phần đất quê-hương, từ mũi Cà-Mau rồi xuyên qua vĩ tuyến 17 (điểm ngăn đôi đất nước ta sau hiệp-định Geneve 20, tháng 7, 1954 bằng giòng sông Bến-Hải; cắt ngang hai tỉnh Quảng-Trị và Quảng-Bình) và tôi cũng đã đi tới Ải-Nam-Quan, miền địa đầu tổ-quốc Việt-Nam.
Trên con đường xuyên Việt; khi về quê Cha đất Tổ, tôi được ghé thăm nhiều Ðền, Ðình, Chùa, Miễu… Tham dự những sinh-hoạt cổ-truyền đầy dân-tộc tính, nói lên tất-cả ý-niệm thiêng-liêng tôn-giáo, nêu cao lòng biết ơn của người dân làng qua các thủ-tục lễ-nghi; nhằm tưởng nhớ những anh-hùng đất nước cũng như đối với các vị Thần linh. Hội-Hè-Ðình-Ðám cũng là dịp để người dân quê quanh năm vất vả với công việc đồng áng, chân lấm tay bùn có dịp nghỉ ngơi, vui chơi, ca hát, ăn uống. Hết lo lắng về đất nẻ ruộng khô, gió lạnh làm mạ lúa héo vàng, được hội-tụ cùng bạn bè thân-thuộc, Làng trên, Xã dưới, trong Thôn, ngoài Tổng.
Một trong những quần-thể kiến-trúc mang đầy tính-chất tín-ngưỡng dân-gian ở miền Bắc Việt-Nam ta, đó là đền Phủ-Giày. Xây tại xã Vân-Cát, huyện Vụ-Bản, tỉnh Nam-Ðịnh, hằng năm nơi đây đều có mở hội từ mùng 1 đến hết ngày 10, tháng 3 (Âm-Lịch). Năm nay, sẽ rơi vào tuần-lễ từ 3 đến 12, tháng 4, 2011 (Dương-Lịch).
Ðền Phủ-Giày để thờ Liễu-Hạnh Công-Chúa. là một trong những vị thần vô cùng quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Mẫu Liễu-Hạnh hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Liễu-Hạnh Công-Chúa được thờ ở rất nhiều nơi như phủ Giầy (Nam-Ðịnh), phủ Tây-Hồ và đền Sòng-Sơn-Vọng-Từ (Hà-Nội), đền Dâu-Tam-Ðiệp (Ninh-Bình), đền Sòng và đền Phố Cát (Thanh-Hóa), đền Phủ-Giày (Saigon) ... trong đó, Phủ Giầy ở Vụ-Bản Nam-Ðịnh, Bắc-Việt là nơi quan trọng nhất.
Truyện xưa, tích cũ ghi lại rằng: Nàng tên thật là Giáng-Tiên, ái-nữ của ông Lê-Thái-Công ngụ ở thôn An-Thái, xã Vân-Cát, huyện Vụ-Bản, tỉnh Nam-Ðịnh. Vân-Cát là một làng văn-học, dân cư đông đúc, gần giáp với núi Gôi. Nơi có ga xe lửa trên đường Hà-Nội đi Ninh-Bình.
Vào đời Hậu Lê (1557) có ông Lê-Thái-Công là một người nhân-đức, chuyên làm điều thiện. Phu-nhân của ông mang thai nhưng thai đã quá tháng mà bà vẫn không sinh-hạ được, lại chỉ thích ngửi mùi hương hoa. Một đêm vào tiết Trung-Thu, có một lão ông ăn mặc rách rưới xin vào nhà Lê-Thái-Công để trị bệnh cho phu-nhân. Ðược chấp-thuận, người này rút ra trong tay áo một cây gậy bằng ngọc, ngửa mặt lên Trời lâm-râm tụng- niệm; sau đó lão ông quăng cây gậy vào người Thái-Công làm ông bất-tỉnh. Cùng lúc ấy, trong buồng phu-nhân bỗng có bóng hào-quang sáng rực và có tiếng khóc “Oa! Oa…” của trẻ sơ-sinh. Thì ra, phu-nhân Lê-Thái-Công vừa hạ-sinh được một cô con gái cùng lúc hương thơm tỏa bay ngào-ngạt khắp gian nhà. Lão ông rách rưới bỗng biến mất. Khi Lê-Thái-Công tỉnh dậy, ông kể lại rằng:
Lúc bất-tỉnh, Thái-Công thấy đằng trước ánh-sáng mờ ảo, có người dẫn ông đi qua mấy chặng đường, đến một nơi cửa-ngọc-lầu-vàng. Tại đây có mấy trăm Tiên nữ áo quần tha-thướt, múa hát những khúc nghê-thường. Họ cùng dâng rượu để chúc thọ cho Vương-Mẫu. Giữa lúc đó, có một nàng Tiên áo hồng, nâng chén ngọc lỡ tay đánh rơi vỡ tan- tành chén quý. Vương-Mẫu liền nổi giận sai hai thị-nữ áp-dẫn nàng tiên áo hồng ra lối cửa Nam. Có một Tiên nữ khác cầm chiếc biển vàng đề hai chữ: “Sắc Giáng” (mang ý-nghĩa một nhan-sắc vừa bị giáng xuống trần-gian). Người ở trên cung-đình cho Lê-Thái-Công biết đó chính là Tiên-Chúa Quỳnh-Nương, đã phạm lỗi nên bị giáng xuống trần làm người. Ngay đúng lúc đó Lê-Thái-Công bừng tỉnh và nghe tiếng khóc của bé sơ-sinh, con mình! Vì thế ông đặt tên nàng là Giáng-Tiên.
Khi Giáng-Tiên lớn lên, nhan-sắc đẹp lạ thường, học-hành thông-minh, lại có khiếu âm-nhạc, nhất là tài-năng xử-dụng ống Tiêu. Giáng-Tiên sau đó kết duyên cùng Ðào-Lang, là con trai một vị quan đã về hưu. Về làm dâu nhà họ Ðào, Giáng-Tiên một lòng hiếu-thuận. Họ có được với nhau một người con trai. Rồi ba năm sau, Giáng-Tiên lâm bệnh nặng và từ-giã cõi trần vào ngày mùng 3, tháng 3 (Âm-Lịch), lúc nàng mới 21 tuổi.

Giáng-Tiên mất đi để lại thương-tiếc cho tất-cả mọi người, nhất là phu-quân Ðào-Lang cùng hai đấng phụ-mẫu Lê-Thái-Công. Thấy mọi người trong gia-đình quá sầu thảm, một hôm Giáng-Tiên hiện về cho biết nàng là Ðệ-Nhị-Tiên-Cung bị đầy xuống trần, nay phải về lại cõi Trời. Cha Mẹ và Ðào-Lang chớ nên u-sầu vì họ là những người ăn ở tốt lành, chuyên làm việc thiện nơi trần-gian. Sau này thế nào cũng được hội-ngộ cùng Giáng-Tiên nơi Thiên-Quốc.
Tuy nhiên, Ngọc Hoàng thấy nàng chưa hết hạn đi đày, bắt nàng phải trở xuống thế-gian. Lần này, nàng xuất hiện dưới lốt một vị nữ Thần, đi theo là 2 ngọc nữ Quế-Nương và Thị-Nương. Theo lệnh Thiên-đình, ba vị Tiên nữ đã hiện xuống giữa ban ngày ở vùng Phố-Cát, tỉnh Thanh-Hóa. Ba nàng Tiên đã lập chỗ trú ngụ giữa một nơi phong cảnh kỳ- tú của nước Việt. Chẳng mấy chốc, cả vùng đều biết tiếng vì những phép linh-ứng của các nàng. Họ đã hiện ra là những cô gái nhan sắc, mở quán bán nước bên đuờng. Những người đàn ông, thanh-niên xỗ-sàng, bất kính với các nàng đều bị thiệt-mạng.
Người trong làng biết chuyện, gọi nàng là Tiên-Chúa. Từ đó Tiên-Chúa thường hiện lên ở khắp nơi. Tương-truyền cũng cho rằng có lần nàng hiện ra ở Lạng-Sơn, Tiên-Chúa đã cùng Phùng-Khắc-Khoan đối đáp thơ-văn. Có lần ở Hồ-Tây, Tiên-Chúa đã cùng Phùng-Công làm thơ, xướng-họa-liên-ngâm.
Tin về đến Triều-đình, nhà Vua cho là yêu-quái. Sai phù-thủy cùng binh-lính đến đèo Ngang để diệt-trừ. Nào ngờ phù-thủy cùng toàn-thể quân lính đều bị tiêu-diệt.
Vài tháng sau chứng dịch bệnh phát-sinh tại địa-phương. Tiên-Chúa hiện ra cứu-thoát dân nghèo khỏi bệnh-tật. Dân làng cùng nhau lập Ðàn cúng Tế để tạ-ơn.
Sau đó, Tiên-Chúa được Hoàng-Ðế là Vua Lê-Huyền-Tôn lúc bấy giờ hạ-chiếu cho Công-Bộ về tận nơi dựng ngôi đền thờ trên Phố-Cát và sắc phong nàng là “Mã Vàng Công-Chúa”.
Ðến đời Vua Cảnh-Hưng, khi giặc Mèo nổi loạn. Quận-Công Phan-Văn-Phái khi kéo quân đến đèo Ngang đã vào đền Tiên-Chúa quỳ xuống khẩn-cầu và ngày hôm sau đánh tan được giặc Mèo. Trước công-trạng ấy, triều-đình sắc-phong cho Công-Chúa làm “Chế-Thắng-Bảo-Hòa-Ðiệu-Ðại-Vương”. Ngày nay là đền thờ Công-Chúa Liễu-Hạnh Ngôi đền này nổi tiếng rất linh-thiêng.
Vào cuối đời Lê, có một vị lão quan 80 tuổi, một hôm nằm mộng thấy Công-Chúa Liễu- Hạnh đi giữa 2000 Tiên nữ theo hầu, mang đến cho ông một chiếu sắc của Ngọc-Hoàng. Trong giấc mơ, ông thấy Công-Chúa Liễu-Hạnh lên xe mây, có nhiều cờ-xí lộng-lẫy trùng-điệp dẫn đường, và thấy có vô-số nhạc-công đi theo. Người ta đoán rằng Công-Chúa đã mãn kỳ-hạn ở trần-gian, nay đã trở về Thiên-Quốc.
Sau khi Liễu Hạnh về Trời, hai tiên nữ Quế-Nương và Thị-Nương thường đứng ra làm trung-gian cho dân-chúng cầu xin đến Công-Chúa Liễu-Hạnh. Dân-gian tin-tưởng bà Chúa Liễu, lập đền thờ bà khá trọng-thể ở Phủ-Giầy, Nam-Ðịnh, nơi bà đầu thai. Dân cũng lập đền thờ Bà Chúa Liễu ở Phố-Cát và Ðền Sòng tại Thanh Hóa, nơi bà xuống trần lần thứ hai.
Tại Hà Nội, có Ðền Sùng-Sơn ở đường Hàng Bột, thờ phượng bà Chúa Liễu. Hàng năm, đến ngày húy, người ta tưng-bừng rước Lễ, dân chúng đã đi trảy hội rất đông. Nhất là người dân thuộc các tỉnh Nam-Ðịnh, Ninh-Bình & Thanh-Hóa.
Ðám rước tại hội Phủ-Giày có cuộc kéo chữ bởi mấy ngàn người. Có năm họ kéo mấy chữ như: “Thiên-Hạ-Thái-Bình”, hoặc “Phong-Ðăng-Hòa-Cốc”, “Quốc-Thái-Dân-An” hay “Vũ-Giáng-Dân-Duyệt”. Ý nói lên lòng dân, xin Công-Chúa Liễu-Hạnh dâng lên Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế những ước-nguyện được sống trong an-lạc, hòa-bình, cơm no, áo ấm, vượt thoát mọi nghịch cảnh hoặc tai-ương trong cuộc đời.
Một nhạc-sĩ lão-thành trong nền âm-nhạc Việt-Nam đã mượn cung điệu của từng nốt nhạc, lời ca để dệt nên bài hát mang tên “Cành Hoa Trắng”; chính là chuyện kể về “Công Chúa Liễu-Hạnh” là một trong những vị Thần nữ đã được dân-gian Việt-Nam vô cùng sùng bái và tôn thờ:
“Một đàn chim tóc trắng
Bay về qua trần gian
Báo tin rằng : Có Nàng Giáng Hương
Nàng ngồi trên cung vắng
Trong một đêm tàn trăng
Phá then vàng bước vào vườn hoang.
Không gian tràn dâng niềm thương
Rồi tiếng hát sui cuộc tình duyên
Bao nhiêu nàng tiên nỉ non
Làm huyên náo Thiên Ðường lạnh lẽo.
Trời đầy cô tiên nữ
Xuống đầu thai thành hoa
Giữa đêm mờ, hoa nở ngát hương
Người về trong đêm tối
Ôm cành hoa tả tơi
Bóng in dài gác đời lẻ loi.”
Nhân mùa Lễ Hội Phủ-Giầy. Cúi cầu xin Công-Chúa Liễu-Hạnh ban ơn cho người dân lành đất Việt được sống đời cơm no, áo ấm. Hết cảnh đói khổ, bệnh hoạn, lam lũ, lầm than. Người người được thoát cảnh Thiên-Tai, Sóng-Thần, Ðộng-Ðất đang đe dọa khắp nơi nơi trên Thế-Giới. Và nhất là xin ban Phước-Lành đến những ai có tấm lòng Bác-Ái, Thiện-Tâm.
www.diamondbichngoc.com (Tài-Liệu tháng Tư, 2011)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
“Bà X khoảng bốn mươi tuổi, hiện đang sống với chồng và con gái trong một căn nhà do chính họ làm chủ, ở California. Bà nói thông thạo hai thứ tiếng: Anh và Việt. Phục sức giản dị, trông buồn bã và lo lắng, bà X tuy dè dặt nhưng hoàn toàn thành thật khi trả lời mọi câu hỏi được đặt ra. “Bà rời khỏi Việt Nam vào năm 1980, khi còn là một cô bé, cùng với chị và anh rể. Ghe bị cướp ba lần, trong khi lênh đênh trong vịnh Thái Lan. Chị bà X bị hãm hiếp ngay lần thứ nhất. Khi người anh của bà X xông vào cứu vợ, ông bị đập búa vào đầu và xô xuống biển. Lần thứ hai, mọi chuyện diễn tiến cũng gần như lần đầu. Riêng lần cuối, khi bỏ đi, đám hải tặc còn bắt theo theo mấy thiếu nữ trẻ nhất trên thuyền. Chị bà X là một trong những người này.
Tìm được ý nghĩa thực của phương trình từ năm 2012 nhưng không dám công bố vì còn kẹt một bí mật cuối cùng, loay hoay nghiên cứu, tìm tòi hàng năm không giải nổi. Nó nằm trong chữ C² (C bình phương) – bình phương tốc độ ánh sáng. Vật chất chỉ cần chuyển động nhanh bằng (C), tốc độ ánh sáng, là biến thành năng lượng rồi, còn sót cái gì để mà đòi bay nhanh hơn? – C+1 đã là dư. C nhân hai, nhân ba là dư quá lố, vậy mà ở đây còn dư kinh hồn hơn, là c bình phương lận – c nhân với c (186,282 x 186,282) nghĩa là khoảng 34,700,983,524 dặm/ giây!
Sau trận Phước Long 6/1/1975, Hoa Kỳ im lặng, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát Đình chiến bất lực, cuộc chiến đã đến hồi chấm dứt. Ngày 10/3/1975, Thị xã Ban Mê Thuột bị tấn công thất thủ sau hai ngày chống cự, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, cao nguyên Trung phần lọt vào tay cộng sản. Ngày 8/3/1975, quân Bắc Việt bắt đầu tấn công vào Quảng Trị, Quảng Trị mất, rồi các tỉnh miền Trung lần lượt mất theo.
Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình.Các con cần phải học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất hứa.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.