Hôm nay,  

Công Chúa Liễu-Hạnh

02/04/201100:00:00(Xem: 11994)
Công Chúa Liễu-Hạnh
cong_chua_lieu_hanh-large-contentLiễu-Hạnh Công-Chúa.
Diamond Bích Ngọc
Từ 1997 đến 2000. Suốt ba năm liền tôi được Trời thương cho có điều-kiện đi về Việt-Nam làm phim tài-liệu. Bước chân tôi đã ghi dấu trên từng phần đất quê-hương, từ mũi Cà-Mau rồi xuyên qua vĩ tuyến 17 (điểm ngăn đôi đất nước ta sau hiệp-định Geneve 20, tháng 7, 1954 bằng giòng sông Bến-Hải; cắt ngang hai tỉnh Quảng-Trị và Quảng-Bình) và tôi cũng đã đi tới Ải-Nam-Quan, miền địa đầu tổ-quốc Việt-Nam.
Trên con đường xuyên Việt; khi về quê Cha đất Tổ, tôi được ghé thăm nhiều Ðền, Ðình, Chùa, Miễu… Tham dự những sinh-hoạt cổ-truyền đầy dân-tộc tính, nói lên tất-cả ý-niệm thiêng-liêng tôn-giáo, nêu cao lòng biết ơn của người dân làng qua các thủ-tục lễ-nghi; nhằm tưởng nhớ những anh-hùng đất nước cũng như đối với các vị Thần linh. Hội-Hè-Ðình-Ðám cũng là dịp để người dân quê quanh năm vất vả với công việc đồng áng, chân lấm tay bùn có dịp nghỉ ngơi, vui chơi, ca hát, ăn uống. Hết lo lắng về đất nẻ ruộng khô, gió lạnh làm mạ lúa héo vàng, được hội-tụ cùng bạn bè thân-thuộc, Làng trên, Xã dưới, trong Thôn, ngoài Tổng.
Một trong những quần-thể kiến-trúc mang đầy tính-chất tín-ngưỡng dân-gian ở miền Bắc Việt-Nam ta, đó là đền Phủ-Giày. Xây tại xã Vân-Cát, huyện Vụ-Bản, tỉnh Nam-Ðịnh, hằng năm nơi đây đều có mở hội từ mùng 1 đến hết ngày 10, tháng 3 (Âm-Lịch). Năm nay, sẽ rơi vào tuần-lễ từ 3 đến 12, tháng 4, 2011 (Dương-Lịch).
Ðền Phủ-Giày để thờ Liễu-Hạnh Công-Chúa. là một trong những vị thần vô cùng quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Mẫu Liễu-Hạnh hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.
Liễu-Hạnh Công-Chúa được thờ ở rất nhiều nơi như phủ Giầy (Nam-Ðịnh), phủ Tây-Hồ và đền Sòng-Sơn-Vọng-Từ (Hà-Nội), đền Dâu-Tam-Ðiệp (Ninh-Bình), đền Sòng và đền Phố Cát (Thanh-Hóa), đền Phủ-Giày (Saigon) ... trong đó, Phủ Giầy ở Vụ-Bản Nam-Ðịnh, Bắc-Việt là nơi quan trọng nhất.
Truyện xưa, tích cũ ghi lại rằng: Nàng tên thật là Giáng-Tiên, ái-nữ của ông Lê-Thái-Công ngụ ở thôn An-Thái, xã Vân-Cát, huyện Vụ-Bản, tỉnh Nam-Ðịnh. Vân-Cát là một làng văn-học, dân cư đông đúc, gần giáp với núi Gôi. Nơi có ga xe lửa trên đường Hà-Nội đi Ninh-Bình.
Vào đời Hậu Lê (1557) có ông Lê-Thái-Công là một người nhân-đức, chuyên làm điều thiện. Phu-nhân của ông mang thai nhưng thai đã quá tháng mà bà vẫn không sinh-hạ được, lại chỉ thích ngửi mùi hương hoa. Một đêm vào tiết Trung-Thu, có một lão ông ăn mặc rách rưới xin vào nhà Lê-Thái-Công để trị bệnh cho phu-nhân. Ðược chấp-thuận, người này rút ra trong tay áo một cây gậy bằng ngọc, ngửa mặt lên Trời lâm-râm tụng- niệm; sau đó lão ông quăng cây gậy vào người Thái-Công làm ông bất-tỉnh. Cùng lúc ấy, trong buồng phu-nhân bỗng có bóng hào-quang sáng rực và có tiếng khóc “Oa! Oa…” của trẻ sơ-sinh. Thì ra, phu-nhân Lê-Thái-Công vừa hạ-sinh được một cô con gái cùng lúc hương thơm tỏa bay ngào-ngạt khắp gian nhà. Lão ông rách rưới bỗng biến mất. Khi Lê-Thái-Công tỉnh dậy, ông kể lại rằng:
Lúc bất-tỉnh, Thái-Công thấy đằng trước ánh-sáng mờ ảo, có người dẫn ông đi qua mấy chặng đường, đến một nơi cửa-ngọc-lầu-vàng. Tại đây có mấy trăm Tiên nữ áo quần tha-thướt, múa hát những khúc nghê-thường. Họ cùng dâng rượu để chúc thọ cho Vương-Mẫu. Giữa lúc đó, có một nàng Tiên áo hồng, nâng chén ngọc lỡ tay đánh rơi vỡ tan- tành chén quý. Vương-Mẫu liền nổi giận sai hai thị-nữ áp-dẫn nàng tiên áo hồng ra lối cửa Nam. Có một Tiên nữ khác cầm chiếc biển vàng đề hai chữ: “Sắc Giáng” (mang ý-nghĩa một nhan-sắc vừa bị giáng xuống trần-gian). Người ở trên cung-đình cho Lê-Thái-Công biết đó chính là Tiên-Chúa Quỳnh-Nương, đã phạm lỗi nên bị giáng xuống trần làm người. Ngay đúng lúc đó Lê-Thái-Công bừng tỉnh và nghe tiếng khóc của bé sơ-sinh, con mình! Vì thế ông đặt tên nàng là Giáng-Tiên.
Khi Giáng-Tiên lớn lên, nhan-sắc đẹp lạ thường, học-hành thông-minh, lại có khiếu âm-nhạc, nhất là tài-năng xử-dụng ống Tiêu. Giáng-Tiên sau đó kết duyên cùng Ðào-Lang, là con trai một vị quan đã về hưu. Về làm dâu nhà họ Ðào, Giáng-Tiên một lòng hiếu-thuận. Họ có được với nhau một người con trai. Rồi ba năm sau, Giáng-Tiên lâm bệnh nặng và từ-giã cõi trần vào ngày mùng 3, tháng 3 (Âm-Lịch), lúc nàng mới 21 tuổi.

Giáng-Tiên mất đi để lại thương-tiếc cho tất-cả mọi người, nhất là phu-quân Ðào-Lang cùng hai đấng phụ-mẫu Lê-Thái-Công. Thấy mọi người trong gia-đình quá sầu thảm, một hôm Giáng-Tiên hiện về cho biết nàng là Ðệ-Nhị-Tiên-Cung bị đầy xuống trần, nay phải về lại cõi Trời. Cha Mẹ và Ðào-Lang chớ nên u-sầu vì họ là những người ăn ở tốt lành, chuyên làm việc thiện nơi trần-gian. Sau này thế nào cũng được hội-ngộ cùng Giáng-Tiên nơi Thiên-Quốc.
Tuy nhiên, Ngọc Hoàng thấy nàng chưa hết hạn đi đày, bắt nàng phải trở xuống thế-gian. Lần này, nàng xuất hiện dưới lốt một vị nữ Thần, đi theo là 2 ngọc nữ Quế-Nương và Thị-Nương. Theo lệnh Thiên-đình, ba vị Tiên nữ đã hiện xuống giữa ban ngày ở vùng Phố-Cát, tỉnh Thanh-Hóa. Ba nàng Tiên đã lập chỗ trú ngụ giữa một nơi phong cảnh kỳ- tú của nước Việt. Chẳng mấy chốc, cả vùng đều biết tiếng vì những phép linh-ứng của các nàng. Họ đã hiện ra là những cô gái nhan sắc, mở quán bán nước bên đuờng. Những người đàn ông, thanh-niên xỗ-sàng, bất kính với các nàng đều bị thiệt-mạng.
Người trong làng biết chuyện, gọi nàng là Tiên-Chúa. Từ đó Tiên-Chúa thường hiện lên ở khắp nơi. Tương-truyền cũng cho rằng có lần nàng hiện ra ở Lạng-Sơn, Tiên-Chúa đã cùng Phùng-Khắc-Khoan đối đáp thơ-văn. Có lần ở Hồ-Tây, Tiên-Chúa đã cùng Phùng-Công làm thơ, xướng-họa-liên-ngâm.
Tin về đến Triều-đình, nhà Vua cho là yêu-quái. Sai phù-thủy cùng binh-lính đến đèo Ngang để diệt-trừ. Nào ngờ phù-thủy cùng toàn-thể quân lính đều bị tiêu-diệt.
Vài tháng sau chứng dịch bệnh phát-sinh tại địa-phương. Tiên-Chúa hiện ra cứu-thoát dân nghèo khỏi bệnh-tật. Dân làng cùng nhau lập Ðàn cúng Tế để tạ-ơn.
Sau đó, Tiên-Chúa được Hoàng-Ðế là Vua Lê-Huyền-Tôn lúc bấy giờ hạ-chiếu cho Công-Bộ về tận nơi dựng ngôi đền thờ trên Phố-Cát và sắc phong nàng là “Mã Vàng Công-Chúa”.
Ðến đời Vua Cảnh-Hưng, khi giặc Mèo nổi loạn. Quận-Công Phan-Văn-Phái khi kéo quân đến đèo Ngang đã vào đền Tiên-Chúa quỳ xuống khẩn-cầu và ngày hôm sau đánh tan được giặc Mèo. Trước công-trạng ấy, triều-đình sắc-phong cho Công-Chúa làm “Chế-Thắng-Bảo-Hòa-Ðiệu-Ðại-Vương”. Ngày nay là đền thờ Công-Chúa Liễu-Hạnh Ngôi đền này nổi tiếng rất linh-thiêng.
Vào cuối đời Lê, có một vị lão quan 80 tuổi, một hôm nằm mộng thấy Công-Chúa Liễu- Hạnh đi giữa 2000 Tiên nữ theo hầu, mang đến cho ông một chiếu sắc của Ngọc-Hoàng. Trong giấc mơ, ông thấy Công-Chúa Liễu-Hạnh lên xe mây, có nhiều cờ-xí lộng-lẫy trùng-điệp dẫn đường, và thấy có vô-số nhạc-công đi theo. Người ta đoán rằng Công-Chúa đã mãn kỳ-hạn ở trần-gian, nay đã trở về Thiên-Quốc.
Sau khi Liễu Hạnh về Trời, hai tiên nữ Quế-Nương và Thị-Nương thường đứng ra làm trung-gian cho dân-chúng cầu xin đến Công-Chúa Liễu-Hạnh. Dân-gian tin-tưởng bà Chúa Liễu, lập đền thờ bà khá trọng-thể ở Phủ-Giầy, Nam-Ðịnh, nơi bà đầu thai. Dân cũng lập đền thờ Bà Chúa Liễu ở Phố-Cát và Ðền Sòng tại Thanh Hóa, nơi bà xuống trần lần thứ hai.
Tại Hà Nội, có Ðền Sùng-Sơn ở đường Hàng Bột, thờ phượng bà Chúa Liễu. Hàng năm, đến ngày húy, người ta tưng-bừng rước Lễ, dân chúng đã đi trảy hội rất đông. Nhất là người dân thuộc các tỉnh Nam-Ðịnh, Ninh-Bình & Thanh-Hóa.
Ðám rước tại hội Phủ-Giày có cuộc kéo chữ bởi mấy ngàn người. Có năm họ kéo mấy chữ như: “Thiên-Hạ-Thái-Bình”, hoặc “Phong-Ðăng-Hòa-Cốc”, “Quốc-Thái-Dân-An” hay “Vũ-Giáng-Dân-Duyệt”. Ý nói lên lòng dân, xin Công-Chúa Liễu-Hạnh dâng lên Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế những ước-nguyện được sống trong an-lạc, hòa-bình, cơm no, áo ấm, vượt thoát mọi nghịch cảnh hoặc tai-ương trong cuộc đời.
Một nhạc-sĩ lão-thành trong nền âm-nhạc Việt-Nam đã mượn cung điệu của từng nốt nhạc, lời ca để dệt nên bài hát mang tên “Cành Hoa Trắng”; chính là chuyện kể về “Công Chúa Liễu-Hạnh” là một trong những vị Thần nữ đã được dân-gian Việt-Nam vô cùng sùng bái và tôn thờ:
“Một đàn chim tóc trắng
Bay về qua trần gian
Báo tin rằng : Có Nàng Giáng Hương
Nàng ngồi trên cung vắng
Trong một đêm tàn trăng
Phá then vàng bước vào vườn hoang.
Không gian tràn dâng niềm thương
Rồi tiếng hát sui cuộc tình duyên
Bao nhiêu nàng tiên nỉ non
Làm huyên náo Thiên Ðường lạnh lẽo.
Trời đầy cô tiên nữ
Xuống đầu thai thành hoa
Giữa đêm mờ, hoa nở ngát hương
Người về trong đêm tối
Ôm cành hoa tả tơi
Bóng in dài gác đời lẻ loi.”
Nhân mùa Lễ Hội Phủ-Giầy. Cúi cầu xin Công-Chúa Liễu-Hạnh ban ơn cho người dân lành đất Việt được sống đời cơm no, áo ấm. Hết cảnh đói khổ, bệnh hoạn, lam lũ, lầm than. Người người được thoát cảnh Thiên-Tai, Sóng-Thần, Ðộng-Ðất đang đe dọa khắp nơi nơi trên Thế-Giới. Và nhất là xin ban Phước-Lành đến những ai có tấm lòng Bác-Ái, Thiện-Tâm.
www.diamondbichngoc.com (Tài-Liệu tháng Tư, 2011)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mão là mèo, quý là phú quý. Quý Mão là mèo có phước được hưởng lộc ăn ngon, mặc ấm, được chăm sóc như thú cưng của gia đình. Theo các nhà tướng số nói vì mèo nhanh nhẹn, trung thành, chung thủy, tình cảm và dễ thích nghi, nên người tuổi Mão sẽ thông minh, kiên trì, tháo vát, may mắn, thành công, giàu sang, sống có tình, có lý…
Lúc còn nhỏ thì không để ý. Nay lúc tuổi già, hồi tưởng lại tâm linh dân tộc, suy nghĩ lại câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “A Di Đà Phật” của dân mình mới thấy nó có một ý nghĩa linh thiêng và đẹp tuyệt vời. Nó không phải chỉ nằm trong phạm vi tôn giáo mà còn hòa nhập thành truyền thống văn hóa dân tộc. Nó trở thành phong cách sống hài hòa giữa đạo và đời. Khi đi chùa gặp nhau, hoặc trong các lễ hội Phật, chúng ta cất tiếng “A Di Đà Phật !” thì tiếng “A Di Đà Phật” trở thành một câu chào hỏi, một lời thân thiện, một lời mừng rỡ rằng ta còn có nhau, một lời chúc tụng, một sự kính trọng, một ước vọng sau này (khi vãng sinh) sẽ lại gặp nhau trên Quốc Độ Thanh Tịnh của Phật A Di Đà.
Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy những cầu thủ đồng hương tranh tài. Thiệt không có gì để có thể phàn nàn. Các em chơi rất tới, rất hết mình, và rất đáng ngợi khen. Đây cũng là lần đầu tiên tôi được nghe những lời bình, bằng tiếng mẹ đẻ, trong một trận túc cầu. Bình luận viên hay nhắc đi nhắc lại những cụm từ rất nặng nề: xử lý tình huống, quật khởi, nỗ lực kiên cường, phương cách đá, tham gia lấy bóng, khoảng cách lợi thế, sự tiếp cận, sự thay người, toả sáng…
Herschel Walker vừa chấm dứt hi vọng tái tranh cử tổng thống của Trump. Herschel Walker loạng choạng, lầm bầm, lóng ngóng cuối cùng đã thất bại trong cuộc đua vào Thượng viện Georgia. Nhưng trong khi Walker có thể sẽ rời khỏi chính trường và chìm vào tình trạng mờ mịt, người đàn ông đã lôi kéo ông Walker vào cuộc đua và áp đặt một ứng cử viên rõ ràng không đủ tiêu chuẩn vào Đảng Cộng Hòa Georgia, hiện đang gặp khó khăn trong việc giải quyết thiệt hại...
Theo Phật Học Từ Điển của Thiện Phúc, “Chánh Niệm (Sammasati/Phạn, Samyaksmrti/ Sankrit, Right mindfulness /Anh Ngữ ) là , ”Nhớ đúng, nghĩ đúng là giai đoạn thứ bảy trong Bát Thánh Đạo. Nhìn vào hay quán vào thân tâm để luôn tỉnh thức.
Người dân Nam Bộ thường phê bình kẻ nói một đường làm một nẻo là “xạo ke”. Sau ngày 30/04/1975, đảng Cộng sản thu đất nước về một mối, nhưng không làm như đã hứa khiến dân Nam Bộ lại phải gọi Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa là “xạo hết chỗ nói”...
Một phong trào biểu tình chống chế độ và chống Xi, do dân chúng và phần đông giới trẻ, sinh viên các Đại học, phát động hôm 24/11/22, nhiều người cho là lớn nhứt từ 33 năm nay. Dân chúng các thành phố lớn, sinh viên từ nhiều Đại học xuống đường tố cáo biện pháp ác ôn « Zéro Covid » của Xi chống dịch Vũ Hán là giết người, trong lúc thế giới cũng chống dịch nhưng không ai làm như vậy...
Coi như là hết thuốc! Bây giờ thì tôi hiểu thế nào là một nhà tù lớn. Tuy không có chấn song nhưng kẻ ở bên trong cũng hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài...
Đến hôm nay thứ sáu 2 tháng 12 giải túc cầu thế giới năm 2022 đã đi được nửa đoạn đường. Cũng như bất kỳ một cuộc tranh đua thể thao nào phải có kẻ thắng người thua. Kẻ thắng thì vui mừng hớn hở vì đã đem lại vinh quang cho xứ sở và dân tộc mình. Kẻ thua thì viện lý do nầy hay lý do khác vì mình đã bị xử ép để tránh sự chỉ trích của những người hâm mộ. Nhưng đó là những sự kiện thường tình lúc nào cũng xẩy ra.
Bài này sẽ phân tích về một số ý chỉ trong hai hội đầu trong Cư Trần Lạc Đạo Phú của Vua Trần Nhân Tông (1258-1308), người sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm. Bài phú này có 10 phần, chữ xưa gọi là 10 hội, chỉ ra đường lối của Thiền Trúc Lâm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.