Hôm nay,  

Đối Thoại Mỹ-Hoa

13/05/201100:00:00(Xem: 10067)

Đối Thoại Mỹ-Hoa

Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng RFA

...Bắc Kinh e sợ nhất là Mỹ mà giải quyết xong cuộc chiến khủng bố thì sẽ chú trọng hơn đến Đông Á...

Suốt hai ngày mùng chín mùng mười tuần này, phái đoàn hùng hậu của Hoa Kỳ và Trung Quốc đã có hàng loạt những cuộc tiếp xúc tại thủ đô Washington D.C. của Hoa Kỳ. Đây là kỳ thứ ba của chương trình gọi là "Đối thoại về Chiến lược và về Kinh tế" giữa hai nước đứng đầu thế giới về kinh tế và cũng là giữa một quốc gia dân chủ nhất là Hoa Kỳ với một xứ đông dân nhất mà có chế độ độc đảng là Trung Quốc. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về khuôn khổ đối thoại này trong phần trao đổi do Vũ Hoàng thực hiện sau đây với nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, thưa ông, là mối quan tâm của nhiều người, kể cả ở Việt Nam. Tuần này, các lãnh đạo cao cấp của đôi bên đã lại có một cuộc họp định kỳ tại thủ đô Mỹ. Theo dõi tình hình Trung Quốc và mối quan hệ giữa hai quốc gia này, ông đánh giá ra sao về các cuộc gặp gỡ đó" Như mọi khi, xin ông trình bày cho bối cảnh của vấn đề.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chúng ta sẽ đi từ chuyện xa ra chuyện gần.
- Hoa Kỳ đã có quan hệ với Trung Quốc có thể gọi là từ tiền kiếp, tức là trước khi trở thành một nước độc lập. Nhưng khi Hoa Kỳ xuất hiện, là từ cuối thế kỷ 18, và phát triển thành một quốc gia hùng mạnh và thịnh vượng, là trong 200 năm qua, thì cũng là lúc "siêu cường" của thế giới thời đó là Trung Quốc lại bắt đầu lụn bại, từ sau thời Càn Long trở đi. Rồi bị tan rã trong nhiều thập niên cho đến ba chục năm trước mới tái xuất hiện như một cường quốc. Đó là bối cảnh chung.
- Nói về quan hệ kinh tế thì biến cố năm 1773 đánh dấu phong trào nổi dậy giành độc lập là vụ "khởi nghĩa vì trà" - người Mỹ gọi là "Boston Tea Party". Đó là khi cư dân quăng trà xuống biển tại hải cảng Boston để phản đối chính khách thuế khóa của chính quyền thuộc địa của Đế quốc Anh. Trà đó không là trà Ấn Độ mà người Anh hay uống mà là trà Tầu, điều ấy cho thấy là từ tiền kiếp rồi, Mỹ đã nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc!
- Sau đấy, khi nhà Đại Thanh bị suy yếu và bị các nước Âu Châu gây sức ép để đòi buôn bán và thậm chí tấn công để khai thác, Hoa Kỳ vẫn đứng ngoài vì theo đuổi mục tiêu xây dựng chế độ họ mới thành lập, hơn là bành trướng ra ngoài. Dân Mỹ chỉ quan tâm đến Trung Quốc qua các nhà truyền giáo mà chẳng biết tới ảnh hưởng thật ra giới hạn của các mục sư trong thiện chí này.
- Khi sáu nước Âu Châu và Nhật tấn công Trung Quốc bằng võ lực, Hoa Kỳ không tham dự vào cái gọi là "bát quốc liên quân" mà chỉ đòi là Trung Quốc mà cho các nước những điều kiện gì thì mình cũng được như vậy. Đó là nguyên ủy của quy chế ta gọi là "tối huệ quốc" sau này. Khi các nước đòi Trung Quốc bồi thường thiệt hại vì vụ nổi dậy và đập phá các cơ sở Tây phương của phong trào gọi là "Nghĩa hoà đoàn" cũng bị gọi là "Loạn quyền phỉ" vào cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ cũng nhận tiền bồi thường, nhưng lại dùng để cấp học bổng cho sinh viên Trung Quốc đi học để nâng cao dân trí và tin rằng lãnh đạo Trung Quốc hiểu ra thiện chí của mình.
Vũ Hoàng: Xin hỏi ông ngay một câu, trong phần trình bày về bối cảnh vừa qua, ta thấy ra nào là việc buôn bán, việc truyền giáo, việc chấp nhận quy chế giao thương không hạn chế gọi là tối huệ quốc, thậm chí cả chiến tranh và du học sinh, v.v... Chúng ta thấy ra toàn những vấn đề có thể nói là "hiện đại", là thời sự. Có phải như vậy không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng thế và xuyên qua đó ta còn thấy nhiều hiểu lầm từ cả hai phía!
- Hoa Kỳ tưởng rằng mình có thiện chí, Trung Quốc thì coi là Hoa Kỳ chẳng khác gì Âu Châu hay Nhật Bản đã từng tấn công và khuynh đảo xứ mình. Qua thế kỷ 20, tình trạng hiểu lầm đó còn tiếp tục, nhất là khi lãnh đạo Trung Quốc thấy xứ sở bị tàn phá, chủ quyền bị xâm lấn và khi phe Cộng sản chiến thắng thì mối hoài nghi hoặc ác cảm đó chỉ tăng vì do nhu cầu chống Nhật, Hoa Kỳ yểm trợ Trung Hoa Quốc Dân Đảng cho tới năm 1947 mới chấm dứt.
- Ngược lại, Hoa Kỳ chưa có chủ đích rõ rệt với chế độ mới thành hình tại Trung Quốc vào năm 1949 thì lại giật mình vì phản ứng bành trướng "để tự vệ" của Cộng sản Trung Hoa. Lãnh đạo Bắc Kinh coi việc họ chiếm đóng Tân Cương, Tây Tạng và đưa quân vào bán đảo Triều Tiên là để tự vệ, tức là xây vùng trái độn để khỏi bị uy hiếp như đã từng bị trong lịch sử của họ. Phía Mỹ thì coi đó là sự xâm lăng trắng trợn.
- Suốt hai chục năm đầu của đảng Cộng sản Trung Quốc thời Mao - từ 1949 đến 1969 - Hoa Kỳ đứng ngoài để canh chừng sự bành trướng chung của khối Cộng sản trong toàn cục của Chiến tranh lạnh, và dù có tham chiến tại Việt Nam thì vẫn không muốn trực tiếp gây hấn với Trung Quốc. Trong khi Trung Quốc bước vào thời kỳ cách mạng hoang tưởng và sắt máu của Mao Trạch Đông để xây dựng "xã hội chủ nghĩa" và làm xứ sở thêm lụn bại trong sự cô lập mê sảng.
Vũ Hoàng: Cho đến khi Tổng thống Richard Nixon mở đường đối thoại và kéo Trung Quốc ra khỏi thời kỳ cô lập đó, vào năm 1972"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa đúng như vậy và chúng ta bước qua bối cảnh hiện tại.
- Bối cảnh này có ba mốc thời gian đáng kể là năm 1972 là khi ông Nixon đi Tầu như ông vừa nhắc tới; là năm 1979 là khi Hoa Kỳ bang giao với Bắc Kinh, cho Trung Quốc gia nhập Liên hiệp quốc, mà đó cũng là năm Đặng Tiểu Bình khởi sự cải cách kinh tế sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng vào tháng 12 năm 1978. Sau cùng và đáng kể vì gần nhất là năm 2001 khi Hoa Kỳ đón nhận Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
- Nhờ được mở cửa hội nhập với kinh tế thế giới, Trung Quốc đạt mức tăng trưởng với tốc độ cao hơn và có giúp cho mấy trăm triệu người ra khỏi hoàn cảnh chết đói vì nghèo khốn. Nhưng cũng vì vậy mà quan hệ kinh tế với Mỹ bắt đầu có vấn đề và đôi bên cần một diễn đàn đối thoại.
Vũ Hoàng: Chúng ta đi vào chuyện thời sự với cuộc đối thoại tuần này. Trước nhất, đó là về kinh tế có phải không"

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Mọi sự bắt đầu từ năm 2004, bên lề Thượng đỉnh APEC tức là Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á châu Thái bình dương tại Chile, khi Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đề nghị với Tổng thống George W. Bush là cấp lãnh đạo kinh tế hai nước nên có những gặp gỡ định kỳ để thảo luận về các vấn đề song phương. Nôm na là về áo cơm giữa hai nước thì nên nói chuyện phải quấy với nhau, chớ đừng đánh nhau bằng luật lệ hay tố tụng! Cuộc gặp gỡ lần đầu là vào Tháng Tám năm 2005 tại Bắc Kinh. Lần thứ nhì là Tháng 12 năm đó tại thủ đô Washington D.C. Tổng cộng là sáu lần trong ba năm....
- Qua năm 2006, Tổng thống Bush và Hồ Cẩm Đào đồng ý nâng cấp đối thoại lên một bậc và định chế hóa việc này thành một năm hai phiên họp, luân phiên tại thủ đô của hai nước. Tổng cộng thì hai bên có năm phiên họp như vậy, phía Hoa Kỳ do Tổng trưởng Ngân khố làm trưởng đoàn, phía Trung Quốc là Phó Thủ tướng, khi ấy là bà Ngô Nghi. Đó là khuôn khổ đối thoại kinh tế mang tính chất chiến lược, gọi là Strategic Economic Dialogue, trong đó, tầm chiến lược của vấn đề kinh tế được nhấn mạnh: chữ "chiến lược" là hình dung từ bổ nghĩa cho chữ "kinh tế".
- Thế rồi đến Thượng đỉnh G-20 vào Tháng Tư năm 2009, lãnh đạo hai nước là Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đề nghị mở rộng tầm đối thoại. Từ nay sẽ bao gồm hai loại hồ sơ là kinh tế lẫn chiến lược giữa đôi bên. Thực tế là nói chuyện về quan hệ kinh tế và ngoại giao giữa hai quốc gia lẫn các vấn đề đáng quan tâm của thế giới. Ngoài giới chức kinh tế tài chánh, còn có sự tham dự của viên chức ngoại giao cấp cao.
- Đồng chủ tịch của phần vụ đối thoại về kinh tế là Tổng trưởng Ngân khố Mỹ Timothy Geithner và Phó Thủ tướng Vương Kỳ Sơn. Đồng chủ tịch của phần vụ đối ngoại về chiến lược là Ngoại trưởng Hillary Clinton và Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc - ông này một "siêu Tổng trưởng" và nhân vật có thẩm quyền về ngoại giao của Trung ương đảng. Khuôn khổ đối thoại vừa kinh tế vừa chiến lược (S&E thay vì SE) xuất phát từ đó. Lần này là cuộc gặp gỡ thứ ba. Nhưng lần này, việc đối thoại hoặc thực tế là thương thảo song phương còn có ý nghĩa khác. Vì một sáng kiến của... Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
Vũ Hoàng: Ông vừa trình bày tính cách mở rộng của đối thoại, từ kinh tế qua chiến lược, bây giờ lại có thêm một nội dung đối thoại khác là quân sự nữa hay sao"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Số là trong hơn một năm liền Trung Quốc từ chối thảo luận về các vấn đề quân sự, Tháng Giêng vừa qua, khi thăm viếng Bắc Kinh và chứng kiến sự xuất hiện của máy bay tàng hình "Tiêm kích J-20" Trung Quốc trước vẻ ngơ ngác của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, Tổng trưởng Quốc phòng Mỹ là ông Robert Gates đề nghị là đôi bên nên đưa vấn đề an ninh vào nghị trình các buổi họp, với sự tham dự của các giới chức về an ninh và quân sự.
- Lý luận ở đây là quan hệ giữa đôi bên đã suy đồi vì những gián đoạn thông tin và thiếu thảo luận về quân sự và quốc phòng. Từ việc Mỹ cung cấp võ khí cho Đài Loan tự vệ đến nỗ lực trang bị quân sự của Bắc Kinh, hoặc khủng hoảng tại bán đảo Triều Tiên vì Bắc Hàn, v.v... hai bên có những động thái khiến bên kia nghi ngờ. Chi bằng công khai hóa quyết định của mình. Hoa Kỳ đã có khuôn khổ đối thoại và thương thảo như vậy với Liên bang Nga, cớ sao không có một nơi thảo luận tương tự với Trung Quốc" Sau cùng thì Bắc Kinh đồng ý. Như vậy, việc nâng cấp rồi mở rộng nội dung đối thoại phản ảnh nhiều vấn đề căng thẳng trong quan hệ song phương giữa hai nước, từ kinh tế qua chiến lược, rồi an ninh và quân sự. Nhưng vì là lần đầu nói chuyện, không ai chờ đợi một kết quả đột phá.
Vũ Hoàng: Khi theo dõi thì ông thấy nghị trình thảo luận giữa đôi bên có những gì là đáng chú ý"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi cho rằng ngoài lãnh vực an ninh và quân sự chưa có kết quả vì nghi ngờ còn quá sâu đậm, phía Hoa Kỳ cũng muốn Bắc Kinh giải thích cảm nghĩ của mình về mấy điểm nóng của thế giới. Thí dụ như phong trào dân chủ có là âm mưu của Mỹ không, hay là trào lưu tất yếu nhân loại" Cớ sao Trung Quốc lại có vẻ sợ hãi và bắt bớ lung tung" Song song với hội nghị này, Ngoại trưởng Hillary Clinton có nói với báo chí Mỹ việc Bắc Kinh cưỡng chống trào lưu dân chủ chỉ là phản ứng khôi hài và vô vọng. Bà dùng một thành ngữ của Mỹ, cũng tương tự như ta gọi là "đi chăn vịt trời vậy"! Bà còn nói thêm là mô thức phát triển của Trung Quốc không có tương lai và tất yếu sẽ khủng hoảng, tức là một nhận định rất nghiêm khắc. Ngoài ra, đôi bên có thể còn trao đổi về các hồ sơ chiến lược khác, kể cả nỗ lực chống khủng bố.
- Trong đề mục của chúng ta thì mình chú ý đến loại hồ sơ thứ ba sau an ninh và chiến lược, là hồ sơ kinh tế. Phía Hoa Kỳ muốn mở rộng tầm đối thoại ra khỏi chuyện hối suất đồng Nguyên và đã ký kết một thỏa ước chung về hợp tác kinh tế, ngoại thương và đầu tư.
- Tổng kết thì từ năm ngoái, Trung Quốc có chiều hướng đối thoại nhũn nhặn hơn. Bắc Kinh chuẩn bị chuyển hướng kinh tế để tránh khủng hoảng và chuyển giao quyền lực cho thế hệ thứ năm sẽ lên lãnh đạo sau Đại hội 18 vào năm tới. Nhưng dưới vẻ nhũn nhặn là một chiến dịch tăng cường khả năng quân sự lồng trong cuộc vận động ngoại giao nhằm tạo ra hình ảnh ôn hòa và hào phóng hơn của Trung Quốc với nhiều quốc gia trên thế giới.
- Ngược lại, từ 10 năm trước, Mỹ mở cửa cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức WTO với hy vọng là xứ này sẽ cải cách cả kinh tế lẫn chính trị, trở thành hiếu hòa và biết điều hơn trong một thế giới hội nhập. Chuyện ấy không xảy ra. Nhờ hội nhập, Trung Quốc vọt lên thành đại cường kinh tế và lại đòi lấn lướt các xứ khác trong khi vẫn giữ ách độc tài bên trong. Bây giờ, Hoa Kỳ cần xuất khẩu nhiều hơn và khó chấp nhận những hạn chế của Trung Quốc ở bên trong và sự bành trướng để uy hiếp xứ khác ở bên ngoài. Cho nên tôi nghĩ rằng vì kinh tế lẫn chiến lược, quan hệ đôi bên sẽ chỉ thêm căng thẳng. Và Bắc Kinh e sợ nhất là Mỹ mà giải quyết xong cuộc chiến khủng bố thì sẽ chú trọng hơn đến Đông Á như Ngoại trưởng Clinton đã thông báo từ năm 2009.
Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa và chúng ta sẽ còn trở lại hồ sơ này trong các kỳ sau.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.