Hôm nay,  

Giáng Sinh và Văn Hóa

08/12/201200:00:00(Xem: 13078)
Sau khi miền Nam bị nhuộm đỏ vào ngày 30-04-1975, cả hai miền Nam, Bắc, người dân tìm đường vượt thoát ra khỏi Việt Nam vì muốn tìm tự do. Cũng may hồi đó (1975-1984) thế giới tự do không làm ngơ mà ngoảnh mặt đi chỗ khác, đã ra tay cứu vớt và nhận cho định cư những thuyền nhân tỵ nạn. Cũng nhờ đó, người Việt Nam ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới nhận ra, mỗi vùng mỗi nước có một nền văn hóa khác nhau, có ảnh hưởng những tôn giáo khác nhau vào nền văn hóa đó, mà điều đó biểu hiện ra ở bên ngoài.

Thí dụ như ta có dịp đến các xứ Campuchia, Thái Lan, Trung Cộng, Mổng Cổ, chúng ta gặp được nhiều chùa, nhiều tu viện được kiến trúc theo phong cách Phật Giáo. Nhưng khi ta đến vùng trời Âu, hay Mỹ Châu, tìm một ngôi chùa quả có hiếm hoi, mà tìm những ngôi nhà thờ, hay những tu viện theo Ki-tô Giáo thì xem ra dễ dàng. Ngay đất nước Hòa Lan hiền hòa, đa văn hóa nhưng những thành phố, làng mạc của họ, nơi đâu ta cũng gặp những mái nhà thờ với những tháp chuông cao vút vươn lên tận bầu trời. Sở dĩ như vậy vì Hòa Lan ảnh hưởng Ki-Tô giáo rất mạnh từ những thế kỷ đầu. Vượt ra ngoài biên giới Hòa Lan đến các nước lân cận như: Đức, Bỉ, Thụy Sĩ, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, nơi đâu ta cũng thấy những tháp nhà thờ.

Do vậy, người đời hay nói với nhau. Âu Châu ảnh hưởng nặng nề văn hóa Ki-Tô Giáo. Á Châu ảnh hưởng nặng nề văn hóa Phật Giáo. Ở châu Á tìm đến một ngôi chùa, để đốt một nén nhang thì dễ, nếu ở Âu Châu tìm đỏ con mắt, khắp cả nước cũng khó kiếm ra một ngôi chùa. Nhưng tìm đến một nhà thờ vào một buổi sáng Chúa Nhật để đi lễ thì rất dễ, có thể ngay trong một thị xã lớn có đến nhiều nhà thờ, với tháp cao chót vót, và với tiếng chuông ngân vang đổ hồi mỗi đầu giờ hay nửa giờ một, nhất là mỗi sáng ngày Chúa Nhật để mời gọi bổn đạo tới nhà thờ dự lễ ngày Chúa Nhật. Đó là những biểu hiện ở bên ngoài ta có thể cảm nhận được.

Nhân mùa Giáng Sinh, sống trong vùng trời Âu, tìm hiểu về lễ Giáng Sinh để hiểu về nó cặn kẽ, thì thật đáng nên làm, vì xã hội quanh ta từ phố thị cho đến từng mái ấm gia đình, không khí mừng lễ Giáng Sinh đã bắt đầu từ sau tháng 10 hàng năm. Vậy lễ Giáng Sinh mà người Ki-Tô giáo mừng là lễ gì, những tôn giáo nào mừng lễ này.

-Ba tôn giáo độc thần là: Do Thái giáo, Islam và Công Giáo, chỉ có Công Giáo là mừng lễ Giáng Sinh:

-Công giáo gồm những đạo nào?

Từ nguyên thủy chỉ có một đạo Công Giáo do Chúa Ki-tô thiết lập từ những năm đầu của thiên niên kỷ, sau dần vì sự chia rẽ mới tách ra Chính Thống Giáo, Anh Giáo, Tin lành, riêng Tin Lành có nhiều hệ phái khác nhau nhưng cùng tin vào Chúa Giê-Su Ki-Tô.

Đạo Do Thái và Islam có tin Chúa Giê-Su, nhưng chỉ coi người như một tiên tri của Thiên Chúa, nên họ không mừng lễ Giáng Sinh.

-Chính Thống Giáo có mừng lễ Giáng sinh vào ngày 06-01 hàng năm nhằm vào ngày Lễ Ba Vua.

-Công Giáo, Anh Giáo và Tin Lành các hệ phái mừng lễ Giáng Sinh vào ngày 25-12 hàng năm.

Dưới đây là nguồn cội của lễ Giáng Sinh dựa theo Tin Mừng của thánh sử Mát-Thêu 1, 18-25.

Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và khônng muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Tất cả sự việc này đã xẩy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dậy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.

Chúng ta cũng nên đọc lại tin mừng của thánh sử Lu-ca 1,26-38 để nắm rõ hơn về Lễ Giáng Sinh.

Truyền tin cho Đức Maria.

Bà Êlisabet có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gaprien đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Thiên sứ vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa, Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của người sẽ vô cùng vô tận”.

Bà Maria thưa với sứ thần: “việc ấy sẽ xẩy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng”!

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Elisabet, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.

Sứ điệp của Ngôi Hai xuống thế làm người.

Bối cảnh thời gian khi con Thiên Chúa xuống trần cách đây trên hai ngàn năm, nhân có cuộc kiểm tra dân số, gia đình ông Giuse phải trở về quê quán để khai sổ nhân danh, cùng thời gian đó bà Maria đã đến này sinh, nhà trọ trong thành không còn chỗ trống, ông bà phải tìm chỗ để qua đêm nơi đồng vắng bên đàn trừu và những người canh giữ đàn vật, đúng vào thời gian bà chuyển bụng và sinh Đức Ki-tô. Vừa khi sinh ra thì có Thiên sứ từ trời hát vang vọng lên:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Thời gian đó ở vào mùa đông, lạnh lắm, lạnh thấu xương, nên có những con cừu trú đêm trong lều vây quanh, thở hơi cho ấm, và những người chăn chiên tiếp đón hài nhi mới sinh.

Hình ảnh này nói lên một chân lý, Chúa đến ở giữa những người nghèo, giữa những kẻ không nhà, không khác gì người tỵ nạn như chúng ta sau những ngày lênh đênh trên biển, được cứu vớt đưa về và thất thểu bước vào trại tiếp cư tỵ nạn. Cuộc đời của Ngài sống nghèo nàn trong mái ấm gia đình của ông bà Giuse và Maria, 30 năm sau Ngài xuất đầu lộ diện rao giảng Tin Mừng. Ngài đến giữa kẻ nghèo để phục vụ chứ không phải để được phục vụ như Mt.20,25-28 đã ghi lại: Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: “Anh em biết, thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Hoặc mời độc giả đọc Tin Mừng của thánh sử Lc. Đoạn 22 từ câu 24-27.

Trong ba năm truyền giảng Tin Mừng và kêu gọi các môn đệ, Ngài đã làm thật nhiều phép lạ. Phép lạ đầu tiên của Ngài là biến nước thành rượu trong một tiệc cưới, chữa nhiều bệnh nhân, trừ quỉ, làm cho kẻ chết sống lại như vụ con trai bà góa thành Na Im. Ngài đã bị xử án, đã bị chết treo trên cây Thập Tự, nhưng ngày thứ ba Ngài đã sống lại, Trước khi chết Ngài đã lập một bí tích mà hiện nay con người vẫn thật khó mà tin được để tồn tại và ở mãi với con người cho đến tận thế. Đó là bí tích Thánh Thể. Hiện nay, nơi các nhà thờ có linh mục, có dâng lễ là có bí tích này. Huyền nhiệm vô song, nhưng cần chúng ta tìm đến và tin. Đạo lý của Chúa Giê-su vang vọng vượt thời gian, đáng cho mỗi người quan tâm, tìm hiểu.

Mừng lễ Giáng Sinh là mừng mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng trần làm người và ở giữa chúng ta. Điều chúng ta nên học ở mùa Giáng Sinh này là: đến với người nghèo, người cô đơn cô thê, thăm viếng ủi an họ, nhất là những đồng hương Việt Nam ở gần bên, nhiều người rất cô đơn về mặt tinh thần. Hoặc thể hiện một nghĩa cử bác ái nào đó với người đồng loại của chúng ta.

Xin trời cao mưa xuống cho nhân loại nhiều ân phúc như lời hát vang vọng của Thiên sứ trong đêm thánh này:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.