Hôm nay,  

Giáng Sinh và Văn Hóa

08/12/201200:00:00(Xem: 13077)
Sau khi miền Nam bị nhuộm đỏ vào ngày 30-04-1975, cả hai miền Nam, Bắc, người dân tìm đường vượt thoát ra khỏi Việt Nam vì muốn tìm tự do. Cũng may hồi đó (1975-1984) thế giới tự do không làm ngơ mà ngoảnh mặt đi chỗ khác, đã ra tay cứu vớt và nhận cho định cư những thuyền nhân tỵ nạn. Cũng nhờ đó, người Việt Nam ở nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới nhận ra, mỗi vùng mỗi nước có một nền văn hóa khác nhau, có ảnh hưởng những tôn giáo khác nhau vào nền văn hóa đó, mà điều đó biểu hiện ra ở bên ngoài.

Thí dụ như ta có dịp đến các xứ Campuchia, Thái Lan, Trung Cộng, Mổng Cổ, chúng ta gặp được nhiều chùa, nhiều tu viện được kiến trúc theo phong cách Phật Giáo. Nhưng khi ta đến vùng trời Âu, hay Mỹ Châu, tìm một ngôi chùa quả có hiếm hoi, mà tìm những ngôi nhà thờ, hay những tu viện theo Ki-tô Giáo thì xem ra dễ dàng. Ngay đất nước Hòa Lan hiền hòa, đa văn hóa nhưng những thành phố, làng mạc của họ, nơi đâu ta cũng gặp những mái nhà thờ với những tháp chuông cao vút vươn lên tận bầu trời. Sở dĩ như vậy vì Hòa Lan ảnh hưởng Ki-Tô giáo rất mạnh từ những thế kỷ đầu. Vượt ra ngoài biên giới Hòa Lan đến các nước lân cận như: Đức, Bỉ, Thụy Sĩ, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, nơi đâu ta cũng thấy những tháp nhà thờ.

Do vậy, người đời hay nói với nhau. Âu Châu ảnh hưởng nặng nề văn hóa Ki-Tô Giáo. Á Châu ảnh hưởng nặng nề văn hóa Phật Giáo. Ở châu Á tìm đến một ngôi chùa, để đốt một nén nhang thì dễ, nếu ở Âu Châu tìm đỏ con mắt, khắp cả nước cũng khó kiếm ra một ngôi chùa. Nhưng tìm đến một nhà thờ vào một buổi sáng Chúa Nhật để đi lễ thì rất dễ, có thể ngay trong một thị xã lớn có đến nhiều nhà thờ, với tháp cao chót vót, và với tiếng chuông ngân vang đổ hồi mỗi đầu giờ hay nửa giờ một, nhất là mỗi sáng ngày Chúa Nhật để mời gọi bổn đạo tới nhà thờ dự lễ ngày Chúa Nhật. Đó là những biểu hiện ở bên ngoài ta có thể cảm nhận được.

Nhân mùa Giáng Sinh, sống trong vùng trời Âu, tìm hiểu về lễ Giáng Sinh để hiểu về nó cặn kẽ, thì thật đáng nên làm, vì xã hội quanh ta từ phố thị cho đến từng mái ấm gia đình, không khí mừng lễ Giáng Sinh đã bắt đầu từ sau tháng 10 hàng năm. Vậy lễ Giáng Sinh mà người Ki-Tô giáo mừng là lễ gì, những tôn giáo nào mừng lễ này.

-Ba tôn giáo độc thần là: Do Thái giáo, Islam và Công Giáo, chỉ có Công Giáo là mừng lễ Giáng Sinh:

-Công giáo gồm những đạo nào?

Từ nguyên thủy chỉ có một đạo Công Giáo do Chúa Ki-tô thiết lập từ những năm đầu của thiên niên kỷ, sau dần vì sự chia rẽ mới tách ra Chính Thống Giáo, Anh Giáo, Tin lành, riêng Tin Lành có nhiều hệ phái khác nhau nhưng cùng tin vào Chúa Giê-Su Ki-Tô.

Đạo Do Thái và Islam có tin Chúa Giê-Su, nhưng chỉ coi người như một tiên tri của Thiên Chúa, nên họ không mừng lễ Giáng Sinh.

-Chính Thống Giáo có mừng lễ Giáng sinh vào ngày 06-01 hàng năm nhằm vào ngày Lễ Ba Vua.

-Công Giáo, Anh Giáo và Tin Lành các hệ phái mừng lễ Giáng Sinh vào ngày 25-12 hàng năm.

Dưới đây là nguồn cội của lễ Giáng Sinh dựa theo Tin Mừng của thánh sử Mát-Thêu 1, 18-25.

Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và khônng muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Tất cả sự việc này đã xẩy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dậy và đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giê-su.

Chúng ta cũng nên đọc lại tin mừng của thánh sử Lu-ca 1,26-38 để nắm rõ hơn về Lễ Giáng Sinh.

Truyền tin cho Đức Maria.

Bà Êlisabet có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gaprien đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Thiên sứ vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa, Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là con Đấng Tối cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của người sẽ vô cùng vô tận”.

Bà Maria thưa với sứ thần: “việc ấy sẽ xẩy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng”!

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Elisabet, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.

Sứ điệp của Ngôi Hai xuống thế làm người.

Bối cảnh thời gian khi con Thiên Chúa xuống trần cách đây trên hai ngàn năm, nhân có cuộc kiểm tra dân số, gia đình ông Giuse phải trở về quê quán để khai sổ nhân danh, cùng thời gian đó bà Maria đã đến này sinh, nhà trọ trong thành không còn chỗ trống, ông bà phải tìm chỗ để qua đêm nơi đồng vắng bên đàn trừu và những người canh giữ đàn vật, đúng vào thời gian bà chuyển bụng và sinh Đức Ki-tô. Vừa khi sinh ra thì có Thiên sứ từ trời hát vang vọng lên:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Thời gian đó ở vào mùa đông, lạnh lắm, lạnh thấu xương, nên có những con cừu trú đêm trong lều vây quanh, thở hơi cho ấm, và những người chăn chiên tiếp đón hài nhi mới sinh.

Hình ảnh này nói lên một chân lý, Chúa đến ở giữa những người nghèo, giữa những kẻ không nhà, không khác gì người tỵ nạn như chúng ta sau những ngày lênh đênh trên biển, được cứu vớt đưa về và thất thểu bước vào trại tiếp cư tỵ nạn. Cuộc đời của Ngài sống nghèo nàn trong mái ấm gia đình của ông bà Giuse và Maria, 30 năm sau Ngài xuất đầu lộ diện rao giảng Tin Mừng. Ngài đến giữa kẻ nghèo để phục vụ chứ không phải để được phục vụ như Mt.20,25-28 đã ghi lại: Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: “Anh em biết, thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Hoặc mời độc giả đọc Tin Mừng của thánh sử Lc. Đoạn 22 từ câu 24-27.

Trong ba năm truyền giảng Tin Mừng và kêu gọi các môn đệ, Ngài đã làm thật nhiều phép lạ. Phép lạ đầu tiên của Ngài là biến nước thành rượu trong một tiệc cưới, chữa nhiều bệnh nhân, trừ quỉ, làm cho kẻ chết sống lại như vụ con trai bà góa thành Na Im. Ngài đã bị xử án, đã bị chết treo trên cây Thập Tự, nhưng ngày thứ ba Ngài đã sống lại, Trước khi chết Ngài đã lập một bí tích mà hiện nay con người vẫn thật khó mà tin được để tồn tại và ở mãi với con người cho đến tận thế. Đó là bí tích Thánh Thể. Hiện nay, nơi các nhà thờ có linh mục, có dâng lễ là có bí tích này. Huyền nhiệm vô song, nhưng cần chúng ta tìm đến và tin. Đạo lý của Chúa Giê-su vang vọng vượt thời gian, đáng cho mỗi người quan tâm, tìm hiểu.

Mừng lễ Giáng Sinh là mừng mầu nhiệm Thiên Chúa Giáng trần làm người và ở giữa chúng ta. Điều chúng ta nên học ở mùa Giáng Sinh này là: đến với người nghèo, người cô đơn cô thê, thăm viếng ủi an họ, nhất là những đồng hương Việt Nam ở gần bên, nhiều người rất cô đơn về mặt tinh thần. Hoặc thể hiện một nghĩa cử bác ái nào đó với người đồng loại của chúng ta.

Xin trời cao mưa xuống cho nhân loại nhiều ân phúc như lời hát vang vọng của Thiên sứ trong đêm thánh này:

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.