Hôm nay,  

Người Tình

03/04/201300:00:00(Xem: 6404)
“Người tình” là tựa đề cuốn phim LAmant (The Lover) do đạo diễn Pháp Jean-Jacques Annaud thực hiện cách đây hơn 20 năm. Kịch bản dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Marguerite Duras xuất bản và đoạt giải thưởng văn chương Prix Goncourt năm 1984. Marguerite (1914-1996) sinh ra ở Gia Định, ngoại ô Saigon vào thời thuộc địa Pháp. Truyện phim chính là cuộc đời của tác giả, bà có tên thật là Marguerite Donnadieu. Để thực hiện cuốn phim, Annaud đã phải tung quảng cáo khắp nước Anh và Mỹ để tìm diễn viên thích hợp với Marguerite ngoài đời nhưng cuối cùng Laurence vợ của đạo diễn tình cờ khám phá ra Jane March top model xuất hiện trên bìa Just Seventeen Magazine ở London.

Cô bé Jane March xinh xắn 52” (1.57m) vừa 16 thì được chọn đóng cùng với tài tử Hong Kong Tony Lueng Ka Fai 33 tuổi. Thân phụ Jane là người Anh gốc Tây Ban Nha và mẹ là người Việt gốc Tầu. Tuy thế, nhìn cô tôi không thấy nét Á châu ngoại trừ dáng dấp thon nhỏ. Cô được mời đến Paris để diễn thử vào dịp sinh nhật 17 tuổi nhưng phải chờ 2 tháng trước năm cô 18 mới bắt đầu quay phim bởi vì nội dung có nhiều pha ân ái nóng bỏng không hợp với tuổi vị thành niên. Dẫu vậy, ban điều hành vẫn phải dùng đến 5 nữ diễn viên giả (body doubles) để thay cô đóng những cảnh làm tình mùi mẫn và 2 người nam thay Tony Lueng. Cử chỉ ngây thơ của cô bé Jane March vào lứa tuổi mới lớn đóng phim tình nóng bỏng đã làm thế giới yêu chuộng nghệ thuật thứ 7 tò mò và phỏng đoán cô đã thật sự diễn những pha ái ân trên giường với Tony Lueng. Được hỏi qua các cuộc phỏng vấn, đạo diễn Annaud làm thinh để cố tình quảng cáo cho cuốn phim của mình thêm phần sôi nổi. Sự việc đã làm Jane tủi hổ và cả hai không nhìn mặt nhau trong suốt 10 năm! Khi cuốn phim hết ăn khách, đạo diễn mới chính thức lên tiếng phủ nhận sự việc và xin lỗi cô nhưng đã có biết bao hiểu lầm...

Cốt chuyện giản dị! Hai nhân vật chính, một ngây thơ như chim ra ràng, một từng trải trong giới thượng lưu... Tình cờ gặp rồi yêu nhau và đắm chìm trong xác thịt như những gì Marguerite Duras đã nếm mùi khi bà là cô bé 15 tuổi, cha mất sớm, ở với mẹ buôn bán thất cơ lỡ vận và người anh rượu chè hung dữ đánh đập cô. Tuy lạc lõng giữa chợ đời ở một đất nước xa lạ miền Viễn Đông vào tuổi dậy thì nhưng cô học giỏi và mang giấc mộng lớn một mai trở thành văn sĩ. Trên chuyến phà qua sông trở về trường học sau những tháng hè ở miền quê, cô gặp một công tử người Tầu bề ngoài lịch lãm điển trai... Thế là câu chuyện tình khởi sắc từ những cử chỉ lãng mạn ban đầu tay nắm tay rụt rè đến những buổi hẹn hò vội vã ở căn nhà nhỏ khu phố Chợ Lớn để hai người đam mê yêu nhau hàng giờ.

Mặc dù nội dung có những pha nín thở, kéo khán giả ngồi bất động vì căng thẳng bởi sóng tình nổi dậy trong chính lòng họ tuy nhiên ở lãnh vực nghệ thuật đạo diễn đã thành công... Hình ảnh có sống sượng nhưng hai thân thể đẹp tuyệt trần của tạo hóa quyện vào nhau như lực nam châm đã để lại khung cảnh lãng mạn cho người xem pha lẫn ít nhiều tư tưởng gợi dục mà sẽ có kẻ đánh giá là tục tĩu! Phim có tính chất lãng mạn vì đã diễn tả trung thực mối tình mang nhiều nghịch cảnh: cô gái 15 nhỏ bé yêu người tình 27 cao lớn, tính ngây thơ bên cạnh nét từng trải, cảnh nghèo nàn đi đôi với giầu sang phú quý, văn minh Âu Tây chung đụng văn hóa Á Châu và cuối cùng trên tất cả là sắc mầu trong tình yêu của một cô gái mẫu quốc da trắng nằm trong tay người đàn ông thuộc địa da vàng.

Giới thiệu cuốn phim đến đây có lẽ đã đầy đủ, tôi xin tiếp tục với phần tản mạn. Bắt đầu là hai chữ ngạc nhiên... Ngạc nhiên với chính mình vì đáng lẽ xem xong “Người Tình”, tôi phải nhớ đến một thời vang bóng, thời gian đi học và đi làm bên trời Âu. Vài cuộc tình đến rồi đi lạnh lùng như năm dài tháng tận! Những chiều cuối tuần xa nhà, cô đơn trong căn phòng nhỏ ở một tỉnh lẻ, may mà có em, em đến thăm rồi ở lại... như một món quà nồng nàn sắc hương. Em đến thăm, áo em mang theo hình ảnh của bốn mùa, mỗi mùa một mầu áo và khi mùa đông về lạnh buốt, phải cởi bỏ nhiều lớp áo ngoài mới nhìn thấy làn da trắng. Kỷ niệm ấy với truyện tình trong phim có sự tương đồng giữa người con gái mắt nâu, tóc vàng sợi nhỏ và người thanh niên Việt nhưng dĩ vãng ấy lại không trở lại tức thì trong lòng tôi khi xem phim “Người Tình”.

Đầu tiên, tôi nhìn thấy trước mắt những cảnh tượng trong tranh vẽ của Trémois, “LArt dAimer” (nghệ thuật yêu) với những đề tài như “Metamorphoses” (sự biến thái), “Mythologies” (huyền thoại), “Etreintes” (sự ghì chặt)... Tất cả những sáng tác ấy mang hình ảnh “ Les Empreintes de lAmour” (dấu ấn của tình yêu). Họa sĩ Pháp Pierre-Yves Trémois được đề cử vào Lacadémie des Beaux Arts (Viện Hàn Lâm Pháp) năm 1978 đã vẽ những tác phẩm đi từ thổn thức của tâm hồn ông trước tình yêu và hoang mang với những câu hỏi kỳ bí đối với cuộc đời. Cuốn phim quay cảnh làm tình bộc lộ sự khắc khoải đè nén như một lạc thú đau thương mà con người không dễ dàng chế ngự trong lúc Trémois diễn tả toàn cảnh đứng ngồi của hai kẻ đang ân ái, siết chặt thân thể vào nhau như một sự cất cánh phơi phới (Envol) kèm theo đó hình ảnh y khoa học mà con người biết tìm nhưng chưa hiểu, vô số tinh trùng từng đàn bay lượn chung quanh noãn bào được vẽ bên cạnh bức tranh. Phải chăng nghệ sĩ đa cảm nên đa tình vì thế sáng tạo được những tác phẩm để đời? Họ bầy tỏ sự thật nguyên thủy rất đơn sơ nhưng cao quý, không dối lòng lừa phỉnh. Sự thật chính là linh hồn của sáng tạo!

Sự kiện tiếp theo trở lại ký ức của tôi là căn nhà nhỏ quay trong phim với lối kiến trúc thuộc địa ở Chợ Lớn mà hai người đã hẹn hò yêu đương. Nó giống căn nhà sát nách xưởng vẽ của thầy tôi, họa sĩ Tú Duyên 161 Nguyễn Công Trứ... Khu phố xưa có những hàng me lá nhỏ, lề đường chật hẹp nhưng buôn bán sầm uất, con đường không xa bùng binh chợ Bến Thành từ lâu đã là tâm điểm của Sài thành.

Thập niên 60, cơ thể tôi trên đà bộc phát, mụn trứng cá bắt đầu xuất hiện trên gò má và một tâm hồn ủy mị đầy cảm xúc bên trong. Lòng tôi sôn sao mỗi khi gặp người con gái mỉm cười quay lại nhìn... Tôi yêu rất vội, thoáng nhanh chỉ vì bốn mắt nhìn nhau! Thuở ấy, mỗi sáng chủ nhật, tôi đạp xe từ trường đua Phú Thọ đến nhà thầy trọ học, có khi ở lại xưởng để vẽ chân dung, có lúc về miền nông thôn mùi hương lúa bạt ngàn phác họa cảnh đồng quê. Căn nhà bên cạnh xưởng vẽ của thầy, tôi để ý lúc nào cũng cửa đóng then cài, trống vắng vì ít người lui tới giống như ngôi nhà của chàng công tử người Tầu trong phim chỉ dùng đến mỗi khi hẹn hò yêu đương với người tình.

Một ngày chủ nhật đẹp trời, đang đứng bên cạnh cửa sổ xưởng vẽ, tôi thấy chiếc taxi hai mầu ngừng trước căn nhà ấy. Chỉ vài phút sau, người đàn ông lịch sự trong bộ âu phục, mở cửa xe mời người tình từ trong nhà bước ra. Không nhìn được dung nhan nàng nhưng từ phía sau, tôi cũng thấy dáng quý phái của mỹ nhân sang trọng trong chiếc áo dài trắng tân thời. Chiếc taxi thấp và nhỏ, nên nàng phải cúi gập người, kéo vạt áo qua một bên trước khi bước vào ngồi... Cả một hình ảnh tuyệt vời đến từ cõi thiên thai ở trước mắt tôi: quần trắng bó sát đôi mông tròn nở nang và không ai ngờ bên trong... hiện lên chiếc quần lót mầu hồng bằng lớp vải mỏng được cắt đúng với kích thước da thịt như một bức tranh khỏa thân chưa bao giờ được thầy tôi cho vẽ. Hình ảnh ấy, kín mà hở, mảnh vải nhỏ mầu hồng đã tô đậm toàn thể những đường cong của đôi mông đầy kịch tính. Dù chỉ chiêm ngưỡng trong mấy giây, nó đã ăn sâu vào tâm trí tôi biết bao ý nghĩ sâu xa về dục tình. Tuần lễ sau đó, tôi thấy mụn trứng cá trên da mặt mọc lên nhiều hơn trước!

Yêu đến sớm hay muộn không mấy quan trọng nhưng thường là theo quy tắc yêu từ trên xuống dưới! Đầu tiên, yêu em vì mái tóc tìm cho thấy liễu xanh xanh lả lơi, hay đi tìm dòng suối tóc trên vai rồi đến đôi mắt như bóng dừa hoang dại, âu yếm nhìn anh không nói năng. Tiếp theo là đôi môi hồng, hôn nhau phút này, chia tay tức thì... Hò hẹn lâu rồi em nói đi! Nhưng chưa nói thì vẫn cứ yêu và mỗi lần như thế thì lại tiến sâu về phía dưới. Đó là cuộc chinh phục “nam tiến” của nam nhi mỗi khi đến tuổi khôn lớn. Con đường tình yêu lúc này vẫn chưa phải là ngõ cụt, không hẹn mà họ sẽ cùng vòng ra phía sau để yêu đôi mông người phụ nữ. Đến đây là điểm hẹn cuối cùng, con người đã biết yêu với tất cả dục tính.

Qua câu chuyện này, tình cờ vào tuổi dậy thì tôi đã đốt giai đoạn để đến trực tiếp điểm hẹn! Tâm hồn một đứa trẻ quả tình là một trang giấy trắng, rất nhậy để in đậm những hình ảnh cuộc đời một cách trung thực. Khi trưởng thành, những dữ kiện ấy sẽ ảnh hưởng sâu rộng vào tâm trí và hành vi của nó. Thời gian dù có dài vô tận cũng sẽ không bao giờ làm tôi quên ngày chủ nhật hôm ấy... chiếc quần lót mầu hồng nhìn qua khung cửa sổ xưởng vẽ của thầy tôi. Căn phố nhỏ trong phim “Người Tình” cũng làm tôi nhớ lại chút kỷ niệm ngày xưa đã qua hơn nửa thế kỷ, lứa tuổi vừa lớn lên bị quyến rũ mãnh liệt vào thế giới đàn bà. Ở người nghệ sĩ, tình yêu là vô tận...

Cao Đắc Vinh
Cali 07/2012

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.