Hôm nay,  

Mỹ-Nga Nháng Lửa

07/09/201300:00:00(Xem: 14294)
Mâu thuẫn Nga Mỹ ở một nơi bất ngờ...

Như một tay mơ chính hiệu, Tổng thống Barack Obama tin vào sự sùng bái mà truyền thông cánh tả dành cho ông, tưởng rằng mình mở ra một kỷ nguyên mới, và như một đấng Cứu Thế sẽ đẩy lui thủy triều. Tuần này, ông bắt đầu thấy ra một sự thật khác.

Sự thật đó không là những lụp chụp với hồ sơ Syria (xin đọc bài "Obama, Syria và Silly-A - Nghịch lý Obama, vũng lội Syria và Liên bang Nga cười cười" trên cột báo này vào tuần trước). Nghĩ rằng dư luận đã quên lời phát biểu dõng dạc hùng hồn của mình vào ngày 20 Tháng Tám năm ngoái, ông chối bỏ rằng mình không vẽ "lằn ranh đỏ" cho chế độ độc tài Bashar al Assad của Syria. Họp báo tại Stockholm bên Thủ tướng Thụy Điển, ông biện bạch là chính "thế giới và Quốc hội Hoa Kỳ" mới vạch ra giới hạn này, nên bây giờ có nhiệm vụ chứng tỏ sự khả tín khi chế độ al Assad sử dụng võ khí hóa học chống lại thường dân.

Nhưng sự bất nhất và dập dừng đó về chuyện Syria đang là thời sự nóng. Nhưng tình chất tài tử của Tổng thống Obama phải được thấy từ trước, trong quan hệ với Liên bang Nga.

Nó đang kết trái tại Thượng đỉnh G-20 ở St. Petersburg: thời sự quốc tế chú ý đến việc Tổng thống Mỹ không có cuộc tiếp xúc song phương với Tổng thống Vladimir Putin của Nga mà lại gặp các tổ chức ngoài chính phủ (NGOs) và những đoàn thể tranh đấu cho nhân quyền tại Nga. Mục đích có thể là để gây khó cho chính quyền Putin.

Chúng ta trở lại nguyên ủy để hiểu ra những mâu thuẫn trong quan hệ Nga-Mỹ mà Obama không thấy, hoặc tưởng rằng mình sẽ vượt qua.

Sau khi đắc cử năm 2008 và vừa nhậm chức vào đầu năm 2009, Chính quyền Obama có sáng kiến gọi là chiến lược, đó là cải thiện quan hệ Mỹ-Nga. Họ dùng một khái niệm vật lý là bật lại cái nút, reset the button.

Về ngôn từ, Phó Tổng thống Joe Biden đã nói sai việc cải thiện này thành "reset" rồi bộ Ngoại giao của Hilary Clinton còn dịch sai ("reset" mà in thành "reload") trên cái hộp bà tặng người tương nhiệm là Ngoại trưởng Sergey Lavrov của Nga. Nhưng chuyện quan trọng không là ngôn từ hay tự vựng mà là nội dung. Obama muốn san bằng mâu thuẫn với Liên bang Nga trong tám năm cầm quyền của George W. Bush, để trở về trước khi có vụ khủng bố 9-11.

Là tay mơ còn đang "phát triển cộng đồng", Obama không nhìn ra một chuyển động lớn từ khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991.

Khi Chiến tranh lạnh kết thúc, các nước Trung Âu và Đông Âu đều thoát khỏi quỹ đạo Xô viết. Họ vừa xây dựng dân chủ vừa hội nhập với Âu Châu, khi ấy còn gọi là Tây Âu, sau này mới thành Liên hiệp Âu châu. Chính quyền Bill Clinton có góp phần chuyển hóa này khi đẩy lá chắn của Minh ước NATO về hướng Đông, đằng sau là các cuộc cách mạng dân chủ muôn màu.

Nhưng nhìn theo con mắt của lãnh đạo Moscow thì đấy là thu hẹp vùng ảnh hưởng của Nga, điển hình là việc Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc nội chiến tại Liên bang Nam Tư và vùng Balkans rồi NATO còn tấn công Cộng hoà Serbia, một đồng minh truyền thống của Nga, để cứu dân Hồi giáo tại Kosovo và Âu Châu đòi giành quyền độc lập cho Kosovo....

Bị khủng hoảng trong 10 năm "hậu Liên Xô", Liên bang Nga đành thúc thủ trước thế lực độc bá của Hoa Kỳ. Và chỉ hồi phục từ khi Vladimir Putin lên làm Thủ tướng năm 1999 rồi Tổng thống trong hai nhiệm kỳ, 2000-2008. Dựa trên lợi thế năng lượng lên giá, Putin muốn chinh phục lại vùng ảnh hưởng Xô viết, thực tế là đẩy lui trào lưu dân chủ trong các nước Đông Âu cũ và cản trở sự bành trướng của Liên Âu.

Mâu thuẫn Đông-Tây lại tái diễn.

Dù mắc bận với cuộc chiến chống khủng bố ngay trong năm vừa nhậm chức là 2001, Tổng thống Bush vẫn công nhận sự sai lầm và trách nhiệm của Hoa Kỳ khi bán đứng Đông Âu cho Liên bang Xô viết sau Thế chiến II. Đầu năm 2002, Bush hủy bỏ Hiệp ước ABM (hỏa tiễn chống phi đạn) đã ký kết với Liên Xô từ năm 1972 để giành quyền phát triển hệ thống phòng thủ chống hỏa tiễn đạn đạo (ballistic missile). Ông muốn duy trì động lượng (momentum) của làn sóng dân chủ do vị tiền nhiệm tiến hành, rồi đưa ra kế hoạch bảo vệ Đông Âu bằng lá chắn chiến lược BMD (ballistic missile defense).

Cụ thể là một hệ thống thám báo đặt tại Cộng hoà Tiệp nối kết với dàn hỏa tiễn thiết trí tại Ba Lan. Tiếng là để phát giác và ngăn chặn hỏa tiễn từ Iran mà thực tế là để phòng ngự Đông Âu. Nếu Nga thấy ngại thì phải gây áp lực với Iran, chứ không thể cùng Trung Quốc giải vây và bao che cho các Giáo chủ cực đoan ở Tehran.

Phần mình, ổn định xong nội tình và củng cố được quyền lực, Putin bắt đầu tổng phản công.

Năm 2008, khi Âu Châu và Hoa Kỳ vừa bị khủng hoảng là Nga dùng võ lực tấn công Cộng hoà Georgia (ngày tám Tháng Tám, 2008) rồi gây áp lực về năng lượng với Cộng hòa Ukraina từ đầu năm 2009. Sau đó, Putin còn đưa ra sáng kiến thiết lập hệ thống quan thuế tự do từ Âu Châu tới Á Châu: nếu các nước dân chủ có Liên Âu European Union thì Nga sẽ có Eurasian Custom Union, kéo dài từ rặng Urals tới Viễn Đông và bao trùm lên Trung Á.

Đấy là lúc Obama lên nhậm chức với chiến lược cải thiện quan hệ Mỹ-Nga.

Đầu năm 2009, tại Thượng đỉnh G-20 ở London hai Tổng thống Obama và Dmitri Medvedev đã thông báo một trang sử mới trong quan hệ giữa hai nước. Cụ thể đảo ngược quyết định của Bush và tháo gỡ hệ thống phòng thủ BMD khiến các nước Đông Âu ngao ngán là lại bị Mỹ phản bội. Nhiều người đã quên lời than của cố Tổng thống Václav Havel về vụ này.

Ông Obama còn thương thuyết lại Hiệp ước START sắp mãn hạn và kêu gọi Nga khuyên giải Iran từ bỏ kế hoạch chế tạo võ khí hạch tâm. Mà không kết quả. Những ai mắc chứng Obamê mà hoài nghi chuyện ấy thì có thể vào trang nhà của Phủ Tổng thống đọc lại những giấc mơ màu hồng của Obama với Medvedev.

Vì hạn định của Hiến pháp Nga thời Yeltsin, Putin phải lui về làm Thủ tướng sau hai nhiệm kỳ Tổng thống (2000-2008) nhưng vẫn thực sự là lãnh tụ của Tổng thống Medvedev. Suốt bốn năm liền của Medvedev và từ đầu năm 2012, khi Putin trở về làm Tổng thống, Nga liên tục có thái độ gây hấn với Hoa Kỳ, kể cả bằng oanh tạc cơ Tu-95B và tiềm thủy đĩnh hạng Akula ở ngoài khơi Alaska, trong vùng Vịnh Mễ Tây Cơ và trên lãnh hải của đảo Guam.

Trên toàn cầu, Nga triệt để cấu kết với các chế độ hung đồ như Trung Quốc, Iran, Syria hay Cuba và Venezuela để giảm thiểu ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Vậy mà khi tái tranh cử năm 2012, Obama vẫn nhờ Medvedev nhắn thầm với Putin, rằng sau khi thắng cử, ông sẽ "có khả năng linh động hơn"!

Kết quả thì Barack Obama được Putin trả ơn bằng cái tát: Nga cho Edward Snowden tỵ nạn chính trị sau khi bị nhà chức trách Hoa Kỳ truy nã về tội tiết lộ bí mật quốc gia. Vì biến cố đó mà Obama phải hủy cuộc họp riêng với Putin tại Thượng đỉnh G20 và đi gặp đối lập khi hệ thống quyền lực của Putin đã có dấu hiệu rạn nứt ở bên trong.

Người ta có thể bình luận dài dòng về mâu thuẫn Mỹ-Nga. Sau đây là vài nét chính.

Với rất nhiều nhược điểm - như chủ quan, phóng túng, hết hồ hởi sảng lại hốt hoảng bậy - Hoa Kỳ có chế độ dân chủ. Đây là "chế độ ít tệ nhất trong các giải pháp chính trị mà loài người đã thử nghiệm", ý của Winston Churchill. Ngược lại, Nga vẫn duy trì ách độc tài, tham nhũng thì chẳng thua gì thời Yeltsin, mà chuyên chế gấp bội, với thế lực của Putin được xây dựng trên hệ thống quốc doanh về năng lượng và chiến dịch bóp chết quyền tự do báo chí cùng đòn phép bức hại đối lập.

Khác biệt ấy khiến Hoa Kỳ vẫn là niềm hy vọng cho các nước khát khao dân chủ trên thế giới, còn Nga thì là đồng minh bảo trợ các chế độ chuyên quyền. Cùng với Bắc Kinh, Moscow tận dụng quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc để chặn mọi quyết định của Hoa Kỳ và các nước Tây phương và để bảo vệ các chế độ độc tài.

Một mâu thuẫn thứ hai thuộc về kinh tế và chính trị.

Trong khi Hoa Kỳ mở rộng sáng kiến xây dựng chiến lược hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP và thương thuyết hiệp định tự do mậu dịch với Liên Âu thì Nga phát triển hệ thống tự do mậu dịch Âu-Á như đã nói ở trên. Năm 2008, khi Thụy Điển và Ba Lan đề nghị kế hoạch đối tác (Eastern Partneship) giữa Liên Âu với các nước Đông Âu, như Belarus, Ukraina, Moldova, Georgia, Armenia và Azerbaijan, Putin bèn ra sức ngăn cản bằng kế hoạch quan thuế Âu-Á.

Được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO từ năm ngoái, Nga tiếp tục vi phạm quy định của WTO và gây áp lực kinh tế với các nước Đông Âu để tách họ khỏi Liên Âu và trở về quỹ đạo Xô viết cũ. Chẳng những vậy, Putin tận dụng võ khí năng lượng để chia rẽ các nước Tây Âu với Đông Âu như đã thấy từ đầu năm 2009: Nga phong toả khí đốt bán cho Ukraina làm các nước Tây Âu khốn đốn và đòi Ukraina phải nhượng bộ Moscow.

Chiến lược hơn vậy, Putin còn muốn kéo nước Đức vào thế trung lập, thậm chí thỏa hiệp với Moscow để có thể mua khí đốt của Nga. Người ta không quên là ngay sau khi Putin tấn công Georgia năm 2008, Thủ tướng Đức là Angela Merkel đã lập tức bay qua Moscow hoà giải, trước phản ứng khó chịu của hai Tổng thống Bush và Nicolas Sarkozy của Pháp.

Nhưng thật ra, mâu thuẫn quan trọng nhất giữa Hoa Kỳ và Liên bang Nga nằm trong một lãnh vực sinh tử của Nga, và bên ngoài chánh sách của Obama. Đó là năng lượng.

Liên bang Nga của Putin chỉ là một nước chậm tiến, sống nhờ sản xuất và xuất cảng năng lượng. Khu vực dầu khí chiếm tới 30% Tổng sản lượng, đem lại phân nửa ngân sách của Putin và 70% xuất cảng của Nga. Nhưng từ khi lãnh đạo, Putin dùng năng lượng làm võ khí và còn cả tin vào một chiều hướng lâu dài là năng lượng lên giá. Cũng vì vậy, kinh tế Nga lệ thuộc vào dầu thô và khí đốt, mà khu vực năng lượng lại tụt hậu nhờ được bảo vệ và giữ thế độc quyền.

Trong khi đó, vì giá dầu khí tăng vọt, thị trường tại Hoa Kỳ đã lặng lẽ tính kiểu khác.

Không chỉ nâng hiệu suất tiêu thụ, tốn ít hơn mà được nhiều hơn để giảm số cầu, kỹ nghệ năng lượng Mỹ còn cải tiến khả năng sản xuất để nâng số cung.

Họ đào dọc rồi xoay ngang và bơm dung dịch với áp suất cực mạnh vào đá phiến để gạn ra dầu khí và áp dụng công nghệ mới để chế tạo khí lỏng có khả năng vận chuyển tiện lợi hơn. Kết quả là Hoa Kỳ bỗng dưng thành đại gia sản xuất năng lượng với triển vọng là một nước xuất cảng đáng kể. Không những vậy, qua các dự án liên doanh và hợp tác, Hoa Kỳ còn quảng bá kỹ thuật mới cho các nước Tây phương.

Họ không còn bị khối OPEC hay các nước Trung Đông bắt bí về năng lượng mà còn đe dọa thị trường xuất cảng của Nga và giúp Âu Châu có dầu, khí, và cả than đá, để khỏi bị Putin xử ép.

Trận đánh Mỹ-Nga về dầu khí mới là hồ sơ còn đáng kể hơn chuyện Syria hay Geogia, Ukraina....

Tuần qua, một ông trùm về năng lượng của Nga báo động rằng "các doanh nghiệp quốc tế đang có âm mưu phá hoại khu vực năng lượng và làm kinh tế của Nga bị tê liệt". Chủ tịch Igor Sechin của tập đoàn quốc doanh Rosneft không là tài phiệt ôm tiền trong quỹ đạo Putin, mà là người cầm đầu phe "sikovili" gồm các thế lực an ninh và quân sự bảo thủ nhất của Putin, và từng là Phó Thủ tướng và cố vấn thân tín cho Putin. Lý do báo động là vì tổ hợp ExxonMobile của Mỹ vừa tạm ngưng thực hiện một dự án khí lỏng cho Nga. Đấy chỉ là chi tiết nhỏ phản ảnh vấn đề lớn.

Trong cả chục năm, Putin củng cố và bảo vệ thế độc quyền của các tập đoàn năng lượng nhà nước. Nhưng thế độc quyền mới gây lụn bại, như đã thấy tại Iran, Venezuela, Việt Nam hay Trung Quốc. Và ngày nay hệ thống tụt hậu này của Nga cần học hỏi công nghệ hiện đại của các nước Tây phương. Khi Putin gây khó cho các nước Tây phương thì mới thấy khí bốc lên đầu....

Chi tiết ly kỳ là Chính quyền Obama đã đi bên lề cuộc cách mạng về công nghệ năng lượng của Hoa Kỳ, có lúc còn muốn cản trở vì áp lực của cánh tả là để bảo vệ môi sinh.... Lần này, Tổng thống Mỹ sẽ ngẩn ngơ trước thế lực của nước Mỹ và sự hậm hực của Putin.

Chính sách "reset" của ông rất vần với rỉ sét!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.