Hôm nay,  

Kinh Tế Obamacare

04/03/201400:00:00(Xem: 14449)
...kể từ năm 2016, từ 6 đến 7 triệu người sẽ mất bảo hiểm tập thể do công ty cung cấp...

Trên cột báo này, chúng ta đã có dịp bàn rất sâu rộng về những hậu quả trên phương diện y tế của cuộc Cải Tổ Y Tế của TT Obama, được gọi nôm na là Obamacare. Cũng dễ hiểu vì quan trọng nhất trong cải tổ y tế là những hậu quả y tế. Nhưng trên thực tế cải tổ y tế này dĩ nhiên là sẽ có những ảnh hưởng vượt xa khỏi phạm vi y tế. Chẳng hạn như cột báo này đã bàn ít nhiều về tác động của Obamacare lên thị trường lao động qua việc các công ty sẽ sa thải hay thay đổi quy chế làm việc từ toàn thời qua bán thời để tránh khỏi phải chịu chi phí bảo hiểm y tế cho nhân viên.

Lý luận này không phải là lý luận kiểu bài bác khơi khơi cho có, mà là một lý luận cơ bản trong luật kinh tế thị trường. Nhưng dù sao thì cho đến nay vẫn chỉ là... lý luận, chưa được chứng minh bằng những con số thống kê thực tế hay nghiên cứu chi tiết.

Nhưng mới đây cơ quan CBO, tức là Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội, một cơ quan chính thức không phe đảng của quốc hội Hoa kỳ, đã chính thức phổ biến nghiên cứu của họ.

Từ trước đến nay, kể cả trên cột báo này, đã có nhiều lý luận cho rằng việc luật Obamacare sẽ đòi hỏi tất cả các công ty có trên 50 nhân viên toàn thời phải mua bảo hiểm sức khỏe tập thể cho tất cả các nhân viên, nếu không sẽ bị phạt nặng, sẽ đưa đến tình trạng một số không ít công ty nhỏ của giới trung và tiểu thương sẽ phải hoặc là sa thải nhân viên xuống dưới mức 50, hoặc là thay đổi quy chế nhân viên toàn thời, ép một số nhân viên phải qua làm việc bán thời để chỉ giữ dưới 50 nhân viên làm toàn thời. Ở đây, xin nhắc lại các công ty không bị bắt buộc phải cung cấp bảo hiểm y tế tập thể cho nhân viên làm bán thời.

Hệ quả đầu tiên và hiển nhiên là Obamacare sẽ không giúp giải quyết nạn thất nghiệp mà trái lại, còn gia tăng nạn thất nghiệp. Đó là một hậu quả cực kỳ nghiêm trọng trong tình trạng kinh tế èo uột của Mỹ hiện nay, với tỷ lệ thất nghiệp ngất ngưởng ở mức cao nhất và lâu dài nhất lịch sử cận đại Mỹ.

Kinh tế Mỹ bình thường chỉ có khoảng 3%-4% thất nghiệp. Cao lắm và gây nhiều khó khăn là 5%-7%. Nhưng từ ngày TT Obama nhậm chức, tỷ lệ thất nghiệp đã leo lên lên xấp xỉ 10%. Lúc gần đây, tỷ lệ này đã hạ xuống dưới 7%. Nhưng con số 7% này mang một ý nghiã hoàn toàn sai lệch. Con số này xuống thấp như vậy chỉ vì hàng triệu người dân trong tuổi lao động đã bị loại ra khỏi thống kê của thị trường lao động vì họ đã thất nghiệp quá lâu, hay vì họ nản chí không ghi tên thất nghiệp hay đăng ký xin việc làm nữa. Con số thực tế của tỷ lệ thất nghiệp hiện hành, theo nhiều thống kê chính thức của Nhà Nước cho biết là… 15%.

Tỷ lệ thất nghiệp cao trên căn bản kinh tế học dĩ nhiên có tác dụng không tốt cho phát triển kinh tế. Càng ít người đi làm thì trên căn bản, sản xuất nói chung càng thấp kém. Cũng may là cái nguyên lý cơ bản này ngày một mất đi ý nghiã, chỉ vì thế giới ngày nay càng ngày cơ giới hoá, hay nói cho chính xác hơn, ngày một vi tính hoá. Một phần rất lớn các công tác ngày xưa đòi hỏi nhân viên, nhân sự, bây giờ đã được thay bằng máy vi tính, computer. Bởi vậy, ta thấy hiện tượng tỷ lệ thất nghiệp thật cao, nhưng kinh tế Mỹ vẫn phát triển ào ào, các công ty ngày một lời to, chỉ số Dow Jones, NASDAQ ngày một leo thang. Chỉ tổ làm giàu thêm cho các đại gia sở hữu chủ các công ty, trong khi nhân viên làm công cho những công ty đó thì … chưa bị sa thải là may, đừng mong chờ được tăng lương theo chỉ số Dow Jones.

Con số 15% thất nghiệp là nói chung cho cả nước. Nhưng nếu nhìn vào từng giới dân số thì con số còn kinh hoàng hơn nhiều, chẳng hạn như tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên da đen là trên dưới 40%. Ta chỉ cần lái xe dạo qua các khu da đen tại các thành phố lớn sẽ thấy các thanh niên da đen lang thang đứng đầy ngoài đường, chẳng có chuyện gì làm.

Tệ nạn xã hội cũng từ đó mà ra. Đặc biệt hiện nay mới phát sinh ra một “phong trào tiêu khiển” mới, rất thịnh hành trong các khu dân thiểu số da màu, gọi là “knock-out game”. Một đám thanh niên tụ tập một chỗ, hay cùng đi lang thang một nhóm, thấy một người lạ đi tới, bất ngờ vô cớ nhẩy ra đánh người đó chơi, rồi cả đám cười lăn ra rồi đi tìm mục tiêu khác. Người bị đánh, chẳng cần biết là ai, lớn bé, già trẻ, trai gái, ông già bà lão, hầu hết là da trắng, có khi da vàng, da nâu. Chẳng hận thù, chẳng quen biết, chẳng gây hấn hay xích mích gì. Đối với đám thanh niên, chán quá không biết làm gì, chỉ là một thú tiêu khiển mới phát minh ra cho vui. Và họ cũng hiểu với ông tổng thống là “người anh em” (bro), lại đã từng tuyên bố “cảnh sát đều là ngu xuẩn” (cops are stupid) thì việc bị bắt và trừng phạt cũng có thể nhẹ tay phần nào.

Những ông bà cấp tiến đã mau mắn chỉ trích các đại công ty, cho rằng họ là những người tham tiền, chỉ biết hành xử vì tiền bạc, sẵn sàng sa thải nhân viên mà không nghĩ gì đến vấn đề con người, số phận lao đao của những người bị sa thải. TT Obama đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi các đại công ty nên có chính sách tích cực giúp giải quyết nạn thất nghiệp bằng cách thuê thêm nhân viên. Ngay cả Đệ Nhất Phu Nhân Michelle cũng đã lên tiếng kêu gọi các công ty nên có chính sách giúp các cựu quân nhân có việc làm.

Qua những lời hò hét kêu gọi của các chính khách cấp tiến thì tất cả là lỗi từ phiá cung, tức là từ phiá các công ty, không chịu thuê thêm nhân viên để tiết kiệm chi phí bảo hiểm.

Nhưng rồi mới đây, Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội đã tạt một gáo nước lạnh, lay tỉnh thiên hạ về một thực tế khác xa hình ảnh của khối cấp tiến đưa ra mà nhiều người cho là đúng. Theo văn phòng này, thì nghiên cứu của họ cho thấy là tỷ lệ thất nghiệp cao dĩ nhiên một phần nào là hậu quả kinh tế của Obamacare, dồn một số công ty vào việc cắt giảm nhân viên, nhưng yếu tố quan trọng hơn lại là chuyện một số lớn nhân viên tự ý... nằm nhà nghỉ khỏe, ăn oeo-phe, nhận trợ cấp bảo hiểm, có lợi hơn đi làm nhiều! Ta cần lưu ý đây là chuyện họ tự ý nghỉ làm chứ không phải công ty sa thải họ.

Trước hết phải khẳng định ngay văn phòng này là một văn phòng chuyên gia không đảng phái, không phải do đảng Dân Chủ hay đảng Cộng Hòa bổ nhiệm và chi phối.

Đặc biệt văn phòng này cho biết là theo nghiên cứu của họ, luật Obamacare không khuyến khích các chủ hãng sa thải nhân viên nhiều như dự đoán, mà trái lại, luật đó đã tạo ra kẽ hở để thiên hạ có dịp nghỉ làm, nằm nhà ăn oeo-phe, lãnh trợ cấp để có bảo hiểm trọn vẹn, có lợi hơn.

Hàng triệu người đã hoặc là nghỉ làm luôn, hoặc là tự ý đi tìm việc làm bán thời, cốt sao cho mức lợi tức xuống tới mức có thể hưởng trợ cấp Medicaid trọn vẹn, hay hưởng trợ cấp tiền mua bảo hiểm y tế. Đó là những người có mức lợi tức cao hơn mức tối thiểu lãnh Medicaid một chút, họ nghỉ làm để lợi tức tuột xuống hạng Medicaid để nhận tiền Medicaid. Hay hạng người trong giới trung lưu thấp nghỉ làm, hay làm ít giờ đi để lợi tức tuột xuống mức để họ có thể nhận trợ cấp bảo hiểm y tế. Theo văn phòng này, Obamacare sẽ khiến ít nhất là hai triệu rưởi người tự ý nghỉ làm hay tự ý kiếm việc làm bán thời từ giờ cho đến năm 2017.

Bất cứ một người bình thường nào cũng thấy đây là một tình trạng bất thường, không thể có lợi cho đất nước. Cả triệu người không đi làm tất nhiên sẽ giảm mức sản xuất kinh tế cho quốc gia, và hơn nữa sẽ tăng gánh nặng của Nhà Nước qua việc tăng tiền trợ cấp đủ loại cho họ. Và dĩ nhiên người phải trả chi phí gia tăng đó là những người vẫn tiếp tục đi làm, đóng thuế cho Nhà Nước có thêm tiền nuôi những người không đi làm.

Và bất cứ một Nhà Nước bình thường nào cũng sẽ cảm thấy có cái gì không ổn, cần phải thay đổi chính sách để gia tăng việc cung cấp nhân lực cho thị trường lao động.

Nhưng oái ăm thay, đó không phải là thái độ của Nhà Nước Obama và khối cấp tiến phe ta. Khối này có vẻ lấy làm hãnh diện vì việc thiên hạ tự ý nghỉ làm phản ánh một chính sách đã cho phép họ có sự “tự do” –freedom- lựa chọn cuộc sống của họ, không bị lệ thuộc vào việc làm, và lại giúp cho những người này có “thời giờ dành cho đời sống gia đình”.

Kẻ viết này bóp trán suy nghĩ nát óc vẫn không hiểu được phản ứng này của chính quyền Obama là phản ứng “nói chơi” hay phản ứng “nói thiệt”. Thiên hạ thất nghiệp ào ào mà Nhà Nước cho rằng đó là điều tốt vì chứng tỏ Nhà Nước đã giúp họ có khả năng tự do lựa chọn lối sống –đi làm hay nằm nhà ăn trợ cấp- và có nhiều thời giờ dành cho gia đình??? Mọi chuyện đã có Nhà Nước lo.

Trên căn bản, lý luận kiểu này tuyệt đối nằm trọn trong nhân sinh quan “vú em” của chủ thuyết Obama. Và phần nào giải thích được việc Nhà Nước Obama chưa bao giờ thật sự quan tâm đến việc giải quyết nạn thất nghiệp tại nước này cả.

Đi đến tận cùng của lý luận này thì toàn dân cả nước sẽ có “tự do” được ngồi nhà, ăn tiền trợ cấp Nhà Nước để vợ chồng vui vẻ, du hý và sanh đẻ đầy nhà, rồi Nhà Nước lo hết. Nghe cũng có vẻ hấp dẫn, nhưng rồi câu hỏi là “thế thì ai là những người ngu muội đâm đầu đi làm? Nhà Nước lấy tiền đâu ra để nuôi cả nước ngồi nhà?”

Hay là Nhà Nước dự tính lột hết tiền của khối 1% “nhà giàu” đi làm cật lưng để nuôi 99% “nhà nghèo” ngồi mát ăn bát vàng? Kẻ viết này hiển nhiên thuộc thành phần 99% nên nghe chuyện này cũng thấy mát tai. Nhưng thực tế, đứa trẻ lớp mẫu giáo cũng hiểu tình trạng này không bao giờ có thể xẩy ra. Khối 1% không thể nào đủ giàu để nuôi khối 99% được. Và cái khối 1% chắc chắn không ngu đến độ tự ý tiếp tục cong lưng đi làm kiếm tiền nuôi khối 99%. Nếu ngu như vậy thì làm sao họ có thể trở thành giàu có được? Mà có muốn cũng không được. Cả triệu nhà máy, công ty, cửa hàng nuôi sống kinh tế cả nước nếu 99% nằm nhà thì lấy ai điều hành?

Thực tế mà nói, sẽ không bao giờ có chuyện 99% dân Mỹ quyết định nằm nhà sống bằng oeo-phe theo kiểu này. Chỉ là một thiểu số người thiếu tinh thần trách nhiệm, lợi dụng một kẽ hở của luật mới thôi. Do đó, hậu quả tài chánh không mấy quan trọng. Con số hai triệu người làm ít giờ đi sẽ không có tác dụng gì ghê gớm trên nền kinh tế vĩ đại của đại cường Cờ Hoa. Vấn đề không phải là những mất mát tiền bạc vật chất.

Vấn đề ở đây là thái độ của chính quyền Obama. Một sự lạm dụng kẽ hở của luật đáng lẽ nên bị chỉ trích và Nhà Nước cần làm một cái gì để ngăn chặn hay bít lỗ hổng. Nhưng Nhà Nước Obama trái lại, công khai bênh vực và ca tụng việc làm này. Đây là một hành động chẳng những cố tình lợi dụng kẽ hở luật pháp, mà lại là một thái độ cố tình trốn tránh nghiã vụ công dân để đùn gánh nặng tài chánh của mình lên đầu người khác. Trên căn bản, vừa bất hợp pháp, vừa vi phạm nguyên tắc đạo đức cũng như tính công bằng. Vậy mà lại được sự cổ võ của chính quyền Obama?!

Dĩ nhiên ai cũng hiểu lời biện giải cua chính quyền Obama chỉ là một cách ngụy biện chạy tội, tìm cách khỏa lấp thất bại (tăng số người thất nghiệp) bằng một kiểu giải thích tích cực (tự do và có thời giờ lo cho gia đình), nhưng vô hình chung, Nhà Nước Obama đã khuyến khích hay ít nhất cũng đã bao che cho dân lách luật và trốn tránh nghiã vụ công dân. Có phải đó là cách lãnh đạo đúng không? Nếu cả nước nghe theo khuyến khích của Nhà Nước thì chuyện gì sẽ xẩy ra?

Một kết luận khác đáng ghi nhận hơn nữa là vẫn theo nghiên cứu của Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội, kể từ năm 2016, từ 6 đến 7 triệu người sẽ mất bảo hiểm tập thể do công ty cung cấp. Một số lớn công ty cấp tiểu và trung thương sẽ hủy bỏ chính sách cung cấp bảo hiểm tập thể cho nhân viên, và dĩ nhiên những người này sẽ bị bắt buộc phải mua bảo hiểm y tế cá nhân riêng rẽ đắt hơn nhiều.

Và cái đinh của bản nghiên cứu mới thật là đáng ghi nhận: 10 năm nữa, đến năm 2024, con số người không có bảo hiểm sức khỏe tại Mỹ sẽ lên đến ít nhất 30 triệu người.

TT Obama viện dẫn chuyện nước Mỹ hiện có khoảng 30 triệu người không có bảo hiểm, và ông tung ra Obamacare với lý do chính là để chấm dứt tình trạng này và bảo đảm tất cả dân Mỹ đều có bảo hiểm y tế. Nhưng theo nghiên cứu mới này của quốc hội, 10 năm nữa, sẽ vẫn có 30 triệu người không có bảo hiểm. Nói cách khác, Obamacare với phí tổn bạc ngàn tỷ, và với những xáo trộn vĩ đại trong cuộc sống của thiên hạ cũng như trong chế độ y tế Mỹ, chỉ là chuyện… công cốc, chẳng thay đổi được gì hết.

Một viện nghiên cứu lớn khác, Brookings Institution, cho biết trên phương diện lợi tức, Obamacare sẽ giúp tăng lợi tức cho giai cấp lợi tức thấp nhất, những gia đình lãnh dưới 21.000 đô một năm, nhờ gia tăng tiền Medicaid khoảng gần 2.000 đô một năm. Tất cả những gia đình thuộc mức lợi tức cao hơn, và nhất là những người trong lớp tuổi từ 65 trở lên, sẽ thấy lợi tức hàng năm của mình bị giảm, từ 1% đến 2% một năm.

Một luật cải tổ y tế mà kết quả cuối cùng là vẫn có 30 triệu người không có bảo hiểm, hàng triệu người tự ý ngồi nhà ăn trợ cấp, và lợi tức của đại đa số dân bị giảm bớt. Chưa kể chuyện gây xáo trộn vĩ đại trong hệ thống y tế và tăng toàn diện chi phí bảo hiểm cũng như chi phí bác sĩ, nhà thương, thuốc men, và chữa trị. Đó là luật tốt hay xấu, có cần điều nghiên và chỉnh sửa hay không? (02-03-14)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.