Hôm nay,  

Công, Tội Trước Lịch Sử

07/10/201400:00:00(Xem: 4300)

Cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh được tìm đọc và bàn luận khá sôi nổi cả trong và ngoài nước. Ở Hà Nội cũng như ở Sài Gòn đã có bán chui ấn bản in từ Cali/Hoa Kỳ gửi về, hoặc tự in ra từ máy vi tính.

Đèn Cù hấp dẫn vì nó kể lại cái không khí sôi động của chiến tranh, tả lại thời kỳ nghiêm trọng sống chết của một dân tộc, đòi hỏi những quyết sách chuẩn xác. Đèn Cù lý thú, lôi cuốn vì nó khắc họa một loạt các khuôn mặt lãnh đạo từng lèo lái con thuyền đất nước qua biết bao hiểm nghèo trong hơn nửa thế kỷ qua, hé lộ những suy nghĩ, hành động, chủ trương của họ, những cuộc đấu đá nội bộ quyết liệt, những thủ đoạn phức tạp đối phó với thù, bạn, ta.

Thế nhưng ý định thầm kín của tác giả Trần Đĩnh là gì? Chủ đích của nhà báo tài năng và tâm huyết này là muốn tâm sự gì với thế hệ đương thời và cho các thế hệ tương lai? Đó là tư duy hòa bình, chung sống hòa bình, chống xung đột vũ trang, phản đối triệt để chiến tranh huynh đệ tương tàn.

Theo tôi, Trần Đĩnh có một lập trường nhân bản. Anh được hấp thụ nền giáo dục và văn hóa Pháp từ thuở bé, để có thể viết được luận văn chính trị lúc mới trưởng thành, ở ngay tòa soạn của tờ báo chủ đạo của Miền Bắc, có quan hệ xã hội rộng.

Cái quý ở Trần Đĩnh là tư duy độc lập, tự tin, suy luận bằng cái đầu tỉnh táo của chính mình. Ở anh không có tố chất cúi mình làm tay sai, nghe theo lệnh người khác. Mặc dù anh nhận viết tiểu sử chính thức cho Hồ Chí Minh, viết hồi ký cho Nguyễn Lương Bằng, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận… nhưng chỉ làm anh thợ viết thuê, nghe kể thế nào viết lại như thế, tuy thế vẫn ngượng ngùng ba lần tủi hổ tự nhận và ăn năn là «bồi bút».

Anh hãnh diện công khai tự khẳng định mình là «xét lại», xét lại chủ nghĩa Mác - Lênin, vì cái học thuyết Mác - Lênin kiểu Stalin là tàn bạo quá, vì cái học thuyết Mác - Lênin kiểu của Mao lại càng dã man hơn. Kinh nghiệm 5 năm sống ở Bắc Kinh đã làm tăng thêm niềm uất hận của anh đối với Mao, ghi sâu trong đầu anh tư tưởng tội ác của Mao là không sợ chiến tranh, kể cả chiến tranh nguyên tử, cho thiên hạ chết la liệt, sẽ còn lại dân Trung Hoa sống sót cũng không sao. Anh cay cú, khinh bỉ cái tư duy ích kỷ của Mao, người chỉ mong cho “thiên hạ đại loạn” để một mình Trung Quốc thủ lợi. Tệ nữa là xúi Việt Nam cứ nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn để ông ta thủ lợi.

Theo tư duy hòa bình nhân ái của Trần Đĩnh, anh dứt tình cả với “Cụ Hồ” của anh, cả với Trường Chinh là người đã dìu dắt đào tạo anh, vì cả Hồ Chí Minh và Trường Chinh thoạt đầu đều tán thành quan điểm “Xét lại” vốn đã thành trào lưu chính thống của phong trào CS quốc tế, nhưng sau cả hai đều xoay sang theo đuôi Mao, cam chịu thành Mao-nhều (Trần Đĩnh sáng tạo ra chữ «nhều» thay cho chữ «Mao-ít » để nói kháy, trêu chọc những người cơ hội theo đuôi Mao).

Cay đắng xuýt xoa tiếc cho Hồ Chí Minh và cho Trường Chinh đã nhu nhược “mặc kệ nó” bao nhiêu thì Trần Đĩnh khinh bỉ oán hận sâu đậm đối với cặp Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bấy nhiêu.

Theo Trần Đĩnh kể, có thể coi 2 nhân vật họ Lê này là đầu mối của những tai họa ập xuống đầu nhân dân ta trong hơn nửa thế kỷ qua. Hai nhân vật này trình độ đều kém hẳn Hồ Chí Minh và Trường Chinh, nhưng mưu chước không hề kém, đã tận dụng thời cơ sau sai lầm Cải cách ruộng đất để gạt Trường Chinh rồi gạt luôn Hồ Chí Minh ra rìa (vin cớ ông Hồ lẩm cẩm rồi) để giành độc quyền lãnh đạo, dần dần lôi kéo quanh mình những kẻ xu nịnh ham mê quyền lực như Tố Hữu, Hoàng Tùng, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Đỗ Mười, Lê Đức Anh…thành một thế lực áp đảo gần giống như «mafia quyền lực», dần dà nắm trọn quân đội.

Yếu tố đảng CS Trung Quốc xuyên suốt lịch sử VN kể từ năm 1949 - 1950 sau khi Mao chiếm chính quyền ở Bắc Kinh ngày 1/10/1949, khai thông biên giới Việt - Trung cuối năm 1950, rồi Mao - Chu n Lai bắt Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp nhận chia đôi đất nước ở vỹ tuyến 17 sau Điện Biên Phủ. Tuân theo Mao, Lê Duẩn quyết gây chiến với miền Nam dưới chiêu bài «thắng giặc Mỹ” bằng mọi giá, để rồi bị đòn đau, phải chui vào chiếc rọ Thành Đô tháng 9/1990 cực kỳ thâm hiểm cho đến nay. Mấy triệu trai tráng 2 miền đẫ hăng say giết nhau chỉ để đạt đến một nước lạc hậu, bất công, không pháp luật, như vô hồn.

Hàng loạt bộ mặt «Mao-nhều» múa may quay cuồng trên sân khấu chính trị Việt Bắc - Hà Nội từ 1949 đến 2014, qua gần 600 trang tả chân, cho độc giả nhìn lại lịch sử VN qua những tình tiết sống động đầy nhân tình thế thái, đậm chất bi hài, ở ngay chốn cung đình.

Cặp bài trùng Lê Duẩn - Lê Đức Thọ nắm chắc con chủ bài «Miền Nam» cần phải được giải phóng khỏi ách Mỹ - Ngụy bằng mọi giá để làm con ngựa chiến của mình, với cái ý đồ không hề che dấu là xé tọac cả 2 «Hiệp định đình chiến Genève và Paris» năm 1954 và năm1972 ngay từ khi 2 văn kiện này chưa ráo mực. Điều khoản mở đầu cả 2 hiệp định đều ghi rõ: “Các bên cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam”, nhưng đảng CS VN, thế lực cầm quyền trên miền Bắc, không bao giờ đếm xỉa gì đến cái quyền tự quyết ấy cả, họ cũng không bao giờ công nhận có một người lính miền Bắc nào trên đất miền Nam, dù cho con số ấy lên đến hàng vạn, rồi hàng chục vạn…vẫn cứ là không có, là con số không, chỉ có quân giải phóng miền Nam, tại chỗ.

Có thể nói Trần Đĩnh đã là luật sư bênh vực một lọat bạn bè thân thiết trong hàng ngũ những kẻ «xét lại», như Hòang Minh Chính, Phạm Kỳ Vân, Phạm Viết, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Lưu Động, Trần Châu, Hà Minh Tuân, Hòang Thế Dũng, Đặng Đình Cần, Mai Hiến, Mai Luân, Trần Thư, Nguyễn Kiến Giang, Lê Minh Nghĩa, Lê Trọng Nghĩa, Đỗ Đức Kiên…Anh cũng minh oan và biểu dương những con người có trí tuệ và nhân cách như Lê Liêm, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm, Đặng Kim Giang, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Vịnh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường. Tất cả họ đều bị chụp mũ oan uổng là phản bội, phản động, theo địch, đầu hàng đế quốc, sợ chiến tranh, không dám hy sinh, dát như thỏ đế, hèn hạ, bạc nhược, bảo mạng, cầu an, tay sai của lão «trọc» - chỉ Nikita Khrushchev.

Trần Đĩnh tiếc nuối sao ông Hồ lại nhu nhược đến vậy, không dám tham gia biểu quyết về Nghị quyết 9, không dám bảo vệ đường lối hòa bình, chung sống hòa bình, tranh đua hòa bình, không lựa chọn CNXH mang mặt con người, bác bỏ CNXH mang mặt dã thú.

Nhóm Mao-nhều truyền bá trong quân đội Võ Nguyên Giáp là kẻ sùng bái học thuật đế quốc, đậu cử nhân Luật, thuộc tầng lớp trên, Nguyễn Chí Thanh mới thật là bần cố nông đích thật, từng chăn trâu giữ bò cho địa chủ từ tấm bé, Chu Huy Mân cố nông đi buôn chiếu dọc sông Lam từ thuở lên 10, Văn Tiến Dũng là công nhân Cổ Nhuế đổ thùng trên phố rồi về làm thợ may. Cố vấn TQ về tổ chức đã đưa ra cả một danh sách loại bỏ hàng loạt sỹ quan tiểu tư sản không có gốc công nông.

Sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh là chỉ ra bóng đen của cộng sản TQ, của học thuyết Mao bao trùm lên dân tộc, đất nước và đảng CS VN, qua tay chân «Mao-nhều» ít học, kém văn hóa quá đông đảo.

Do đó cuốn sách kể chuyện cũ mà mang tính thời sự nóng hổi, với những trò chơi xấu của kẻ bành trướng mới rồi ở Biển Đông.

Cuốn sách như muốn góp ý cho mọi đảng viên và bà con ngoài đảng, gợi ý cho tuổi trẻ suy nghĩ về đất nước ta khi Đại Hội XII đang được chuẩn bị, về công và tội của đảng, về công và tội của từng công thần của chế độ, không trừ một ai.

Đây còn là một cuốn sách rất quý ở chỗ nó đáp ứng đòi hỏi «chúng tôi muốn biết» của tuổi trẻ Việt Nam ngày nay.

Phải chăng Thoát Mao, Thoát Trung là yêu cầu sinh tử, và liên minh với bè bạn mới, với mọi nước dân chủ là con đường sống bền vững của dân tộc Việt Nam?

Bùi Tín

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.