Hôm nay,  

Sơn Tây Ba Chầu Vái

09/12/201400:00:00(Xem: 4427)

Nhân có Nhà văn Phạm Đình Trọng, Nhà văn đi đâu cũng có người kèm, từ Sài Gòn ra thăm nhà thơ Bành Thanh Bần (hai anh trước đấy đều là bộ đội thuộc binh chủng Thông tin) tại thị xã Sơn Tây mà nhà dân chủ hàng đầu thời kỳ đổi mới Nguyễn Thanh Giang; Nhà báo Nguyễn Đình Ấm, người vừa lập chiến công trên công luận dẫn đến đất nước có “Lời giã biệt cho sân bay Long Thành”; Nhà giáo Vũ Mạnh Hùng và Phạm Thành tôi, người vừa đá bóng với CAHN ở tháng trước, được bám càng lên Sơn Tây thăm thú hồ Tiên Sa và du lịch vài địa danh ở thị xã Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội. Đặc biệt đoàn được nhà thơ Bành Thanh Bần là bạn của 5 chúng tôi cùng đi và sắm vai hướng dẫn viên du lịch cho cả đoàn.

Hồ Tiên Sa đẹp khỏi phải nói. Đồi núi trập trung, cây lá bốn mùa xanh tươi, nước hồ lúc nào cũng trong xanh, huyền ảo, kiêu sa. Dưới hồ luôn có cá nhiều loại, muốn ăn chỉ cần buông vài sợi câu là có mồi nhậu. Mùa Đông ở đây thì ấm áp, mùa Hè thì mát, nhiệt độ thường thấp hơn các khu vực lận cận tới vài độ C.

Sơn Tây sáng ngày 4. 12 trời đẹp. Buổi sáng có lất phất mấy giọt mưa lạnh đầu Đông, nhưng đến 9 giờ thì trời hửng nắng, lại được gió nhẹ heo may làm cho những con đường trong thị xã nhanh chóng khô giáo. Trời từ âm u, lãng mây đen trôi bỗng cao xanh hẳn lên.

blank
Hình ảnh chuyến đi Sơn Tây.

Sáu người bệ đít trên hai chiếc xe con 4 chỗ màu tím đen bóng lộn, cùng hai tài xế trẻ măng, hào hoa thuộc Công ty du lịch Hồ Tiên Sa, thông thạo đường đất Sơn Tây, điều khiển đưa lối cho chúng tôi đến các điểm chầu.

Không gian của trời xanh, lá xanh chạy theo hai bên đường như cổ vũ reo vui, trải thảm cho lòng người đang háo hức hoài niệm về vùng đất cổ.

Chỉ một loáng đoàn đã có mặt tại khu Thành cổ Sơn Tây. Thành này được xây dựng từ thời nhà Nguyễn. Có bốn cửa chia về bốn hướng: Nam, Bắc Tây, Đông. Không có mấy khách du lịch đến thăm thành trong dịp này. Vì vậy mà đoàn thoải mái quan sát. Thấy trong thành cây cối râm rạp, có nhiều cây to, cao với độ tuổi hơn cả trăm năm, cành lá sum xuê tỏa bóng. Thành này có vị trí quan trọng chỉ sau Thành Thăng Long trong hệ thống thành bảo vệ Thành Thăng Long. Hoàng Kế Viêm cùng Lưu Vĩnh Phúc thủ lĩnh quân Cờ đen đã đóng binh tại đây để chống quân Pháp trong những ngày đầu đánh chiếm Hà Nội. Quân Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc đã tổ chức mai phục tại Cầu Giấy và giết đại úy Pháp tại đây. Tay đại úy này sau này được Tam nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến làm thơ điếu theo yêu cầu của Pháp có những câu thơ chửi Pháp thật tài tình: “Cúng ông, gà một con, trứng một ổ…”.

blank
Hình ảnh chuyến đi Sơn Tây.

Điện Kinh Thiên phục dựng lại

Trong tám mươi năm người Pháp cai trị Việt Nam, thành Sơn Tây vẫn còn nguyên vẹn với ba cơ cấu thành quách chính: bốn cửa thành: Nam – Bắc – Tây Đông, khu trại lính, Điện Kính Thiên và dinh Tổng Đốc Sơn Tây. Thành chịu kiếp nạn ở năm 1946 khi chính phủ của ông Hồ Chi Minh cướp được chính quyền từ chính phủ của ông Trần Trọng Kim và thực hiện “Tiểu thổ kháng chiến. Bốn cổng, khu trại lính, dinh tổng đốc và Điện Kính đã bị phá tan tành. Suốt một thời gian dài sau đó, Thành cổ Sơn Tây trở lên tan hoang, cỏ dại um tùm mọc, trâu bò quần thảo trở nên hoang phế, cho đến cách đây độ mười năm thì có chủ trương của nhà nước khôi phục lại, nhưng chỉ khôi phục được Điện Kính Thiên, ba cổng thành và cột cờ. Những hạng mục công trình khác nhà nước coi như vĩnh viễn không có.

“Tiểu thổ kháng chiến” là một chủ trương lớn của chính phủ ông Hồ Chí Minh. Ở bất kỳ địa phương nào cũng có hiện tượng này xảy ra. Ở Thanh Hóa, Hạc Thành có từ thời nhà Nguyễn với quy mô hoành tránh, bề thế, to lớn chỉ sau kinh thành Huế, cũng bị thiêu trụi, đập phá và san phẳng đến một viên gạch trồi trên mặt đất cũng không còn nhìn thấy trong chính sách tiêu thổ kháng chiến này. Các nhà nghiên cứu lịch sử ít công khai nói đến sự kiện tàn phá kinh thiên, động địa này. Nhưng, trong dân Thanh Hóa hiện vẫn có nhiều người nhớ và còn tiếc. Họ ngậm ngùi mà than rằng, giá Hạc Thành không bị “Tiêu thổ kháng chiến”, còn đến ngày nay, hẳn sẽ được thế giới công nhân là Di sản Văn hóa vật thể của thế giới vì sự đồ sộ, cổ kính, nguy nga của nó, vì Hạc Thành ở mọi phương diện chỉ đứng sau kinh thành Huế.

blank
Hình ảnh chuyến đi Sơn Tây.

Tôi cứ ngậm ngùi, ray rứt mãi trong lòng về chủ trương “Tiêu thổ kháng chiến” này của ông Hồ Chí Minh. Không biết sự phá hoại các công trình có giá trị về văn hóa, kinh tế, quân sự này giúp được bao nhiêu phần trăm cho công cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược trở lại? Mà người Pháp đâu phải là một đội quân vô văn hóa, chỉ thích tàn phá? Người Pháp trong tám mười năm độ hộ, tôi chưa bao giờ nghe dân ta ta thán về họ trong hành xử vô văn hóa với các công trình văn hóa. Ông Hồ Chí Minh đã từng là đảng viên đảng Xã hội Pháp, học chữ Pháp, sống trong lòng nước Pháp, ăn bơ sữa của người Pháp, há lại không biết người Pháp luôn có thái độ trân trọng những công trình văn hóa, kiến trúc như thế nào sao? Một nghịch lý nữa, ông Hồ Chí Minh kêu gọi dân chúng ủng hộ vàng đem đút lót cho Tầu để quân Tàu vui vẻ rút về nước và nhất định chọn Pháp làm đối thủ trong cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm, sao ông ta lại còn đề ra chính sách “Tiêu thổ kháng chiến” kỳ quái này?

Với việc triệt hạ đến tận viên đá cuối cùng ở thành Hạc Thành – Thanh Hóa, Thành Cổ – Sơn Tây và những Công trình văn hóa, kiến trúc ở khắp đất nước trong chính sách “Tiêu thổ kháng chiến” của chính phủ ông Hồ Chí Minh, tôi lại thấy nó có gì đó giống với giặc Tầu mỗi khi xâm chiếm nước ta. Đó là triệt hạ những công trình có giá trị về quân sự đã đành mà chúng còn thường trực trong ý thức là phải tiêu diệt đến tận gốc rể những gì là văn hóa, liên quan đến văn hóa Việt, không chỉ ở những công trình kiến trúc bằng gạch, đất, đá, vôi vữa mà chúng còn săm soi, moi móc, đốt phá và tịch thu đem về Tàu Quốc những sách vở thơ văn, sách vở khoa học, tâm linh và cả những sách vở ghi những bài thuốc chữa bệnh. Mục đích của chúng là quyết tâm xóa bỏ văn hóa của người Việt, để người Việt mãi mãi chỉ là người man di không có văn hóa riêng của mình, để đến một ngày nào đó người Việt không con văn hóa của mình sẽ phải phụ thuộc hoàn toàn vào văn hóa Tàu, thành công dân của Tầu.

blank
Hình ảnh chuyến đi Sơn Tây.

Người định ra chủ trương này liệu có biết điều này? Phải chăng, để che đậy nó, người ta đã dùng chiêu bài chống Pháp (ngăn bước tiến quân Pháp, không để lại gì cho quân Pháp, nhằm gây khó khăn cho quân Pháp…) là để che đậy mục đích làm cho người Việt mình không còn văn hóa Việt như người Tầu đều thực hiện trong bất kỳ cuộc xâm lược Việt Nam nào?

Đang tâm tư buồn nản, may mà được anh Bành đưa đến thăm một ngôi chùa, có tên gọi là Chùa Mía. Chùa nằm khuất nẻo về phía Bắc Thành Sơn Tây, vẫn còn nguyên vẹn, đủ đầy. Theo phả chùa, chùa này được xây dựng từ năm 1632 do một cung phi của triều đình về đây ở và dựng lên. Cột nhà, mái nhà và những tượng thờ còn nguyên từ thời đó. Nó có Chính điện, Hậu điện, Hành lang điện. Chính điện thờ Phật Thích ca mâu ni. Hậu điện thờ Phật Nam hải, Quan âm Thị Kính bồ tát và những Phật khác. Mỗi Phật có am riêng, cũng được dựng lên từ những năm 1632. Đặc biệt hai bên hành lang, từ Chính điện xuống Hậu điện, mỗi bên có 9 vị La hán béo tốt trong tư thế ngồi Phật thành hàng, dẫn lối xuống Hậu điện. Có thể nói, Chùa Mía còn la liệt Phật cổ trong Chùa, đủ hình mẫu cho những ai muốn bày tỏ tâm linh và về đây nghiên cứu văn hóa Việt.

blank
Hình ảnh chuyến đi Sơn Tây.

Tiếc là một chùa cổ như vậy, nhưng phía mặt trước của chùa, đường xá còn lem nhem, nham nhở, người xe, quán xá … lộn nhộn làm cho sự trang nghiên của ngôi chùa cổ này như bị xúc phạm.

Đoàn tham quan có chạnh buồn vì cái không gian phía trước chùa không trang nghiêm như vậy. Nhưng trong buồn lại vớt vát được nỗi vui vì nó vẫn còn nguyên vẹn, không bị xóa dấu vết như nhiều nhà chùa khác mà trong chính sách “Tiêu thổ kháng chiến”, trong chủ trương bài trừ văn hóa phong kiến thực dân của chính phủ ông Hồ Chí Minh đã thực hiện. Hoặc như các chùa triền mới xây dựng, Tàu- Tây- Ta lẩn lộn; Phật- Đời bát nháo xen canh.

blank
Hình ảnh chuyến đi Sơn Tây.

Như thế là chúng tôi đã qua hai chầu vái.

Chầu vái thứ 3 là chầu vái cụ Ngô vương Quyền, người con rể của làng tôi (xã Thiệu Long, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thành Hóa) đã thực hiện được ý nguyện của người cha vợ Dương Đình Nghệ, đánh đuổi được quân Nam Hán dựng nền độc lập tự chủ đầu tiên cho nước Việt ta (năm 938). Khi viên tịch, cụ Ngô Vương Quyền được quân dân nước Việt đem ông quàn tại chính mảnh đất riêng của nhà ông.

Nhà ông, một ngôi nhà gỗ ba gian xinh xinh, nơi ông ở, nay làm thành đền thờ cho chính ông, khiêm tốn, giản dị.

blank
Hình ảnh chuyến đi Sơn Tây.

Một ngôi mộ quàn thân thể ông được xây dựng vừa đủ tôn nghiêm, nằm trên một vạt đồi thoai thoải xuôi theo hướng Nam. Quanh mộ ông có bốn mùa thoảng mát với những cây xanh. Xa hơn hơn một chút về phía Tây Bắc là rặng duối nghìn tuổi uy nghiêm trùm bóng. Tương truyền hàng cây duối này được người anh hùng dân tộc Ngô Vương sử dụng để buộc ngựa, voi. Phía đỉnh mộ ông nằm là một khoảng trời cao xanh, đủ xa rộng cho mắt ông phóng vút tầm nhìn về phía Nam xa ngút. Không gian thoảng đảng, ấm áp, thỉnh thoảng nghe trong cây lá có tiếng lảnh lót hót của chim hay tiếng lao xạo truyền cành của chúng.

Đoàn có cảm giác như cụ Ngô Vương Quyền vẫn còn tươi nguyên ở trong mộ. Những cọc đóng trên sông Bạch Đằng vẫn còn mới và nhọn hoắt. Nhà thơ Bành Thanh Bần tâm sự, lần nào đến viếng mộ cụ Ngô Vương Quyền, hễ ông sờ vào cọc lim Bạch Đằng là người như thấy có điện từ cọc lan tỏa vào cơ thể ông, cứ như hào khí Bạch Đằng truyền sức mạnh cho ông vậy.

Chúng tôi, từng người, rồi cả đội xếp thành hàng thắp hương vái cụ. Mỗi người đều có những tâm sự riêng với cụ. Nhà giáo Vũ Mạnh Hùng, nhà báo Nguyễn Đình Ấm như không kìm nỗi xúc động nói lên thành lời: “Cụ ơi, cụ có biết non sông của cụ đã bị chúng nó dâng cho kẻ thù của cụ như thế nào không?”. Tôi cũng la lớn: “Cụ ơi, cụ hãy tỉnh dậy đi, nước Việt đang cơn nguy biến. Kẻ thù của cụ, của dân Việt đã vào tận nhà mình rồi”.

blank
Hình ảnh chuyến đi Sơn Tây.

Nhà thờ cụ Ngô Vương Quyền

Nhà thơ Bành Thanh Bần có kể câu chuyện: Cụ Ngô Vương linh thiêng lắm. Những kẻ nuôi mộng bán nước Việt cho Tàu, hễ đem cây đến vườn cụ trồng, các cây đó đều tự nhiên héo cành, rụng lá và chết hết cả. Cây chết, những cọc ghi tên người trồng đã phải nhổ đi, xếp thành một bó ở phía sau đền thờ cụ Ngô Vương.

Thật ấm lòng. Những kẻ nuôi mộng bán nước cho Tàu hãy đến đền thờ cụ Ngô Vương Quyền mà xem, để rồi bọn bay nhận ra một sự thật, các người có thể lừa được người sống chứ không thể lừa được thần linh nước Việt.

blank
Hình ảnh chuyến đi Sơn Tây.

Ba chầu khấn vái, thành kính, trang nghiêm của đoàn chúng tôi kéo dài tới 11h30 thì kết thúc. Và để cho chuyến du lịch có hậu, nhà thơ Bành Thành Bần đưa chúng tôi vào làng cổ Đường Lâm ăn một bữa cơm với rau rền, cà pháo và uống rượu đựng trong bình cổ.

Tại đây, lần đầu được nghe, nhà dân chủ hàng đầu trong thời kỳ mới TSKH Nguyễn Thanh Giang bộc bạch, ông đã có hàng chục lần bị công an tổ chức đến khám nhà, mấy chục lần, công an từ cấp phường đến cấp bộ triệu tập lấy khẩu cung và Tạp chí Tổ Quốc của ông vẫn còn xuất bản đều đều cả ngàn số mỗi kỳ.

Cảm ơn nhà thơ Bành Thành Bần, một hướng dẫn viên du lịch ngoại hạng, đã cho chúng tôi một tua du lịch thật bổ ích.

P.T

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.



Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.