Hôm nay,  

Cuộc chiến Việt Nam chấm dứt nhưng mãi lâu lắm vết thương tâm hồn mới dần phai

12/04/201500:12:00(Xem: 6836)

Cuộc chiến Việt Nam chấm dứt nhưng mãi lâu lắm

vết thương tâm hồn mới dần phai

 
Nguyễn Quang

          Nạn nhân chiến tranh với máu đã tuôn ra như mạch nước hoà vào dòng chảy của tang thương đầy nước mắt trong một cuộc chiến mà thật sự không đáng xảy ra.

          Từ thái độ bàng quang đến phản ứng nội tâm bình tĩnh chờ đợi, nạn nhân chiến tranh thường luôn phản ứng lo sợ. Một số người dường như vẫn bình thản với cuộc chiến nhưng không phải thế, chính sự đau thương chết chóc khiến họ đối mặt trước sự thật theo thời gian trở nên chai đá với những cảm xúc hằng ngày.

          Trầm nhược và tự sát thường xuất hiện sau những thất bại liên tiếp, vì do kỳ vọng quá cao “tham vọng lớn, mất mát lớn”. Trong môi trường chiến tranh đôi khi không còn lòng mong muốn gì ngoài sự ngưng tiếng súng, những ước muốn để cùng tồn tại ấy lại vượt khỏi tầm tay của mỗi cá nhân, con người sinh ra và bị ràng buộc trong thứ quan hệ thiện hoặc ác mà hữu thể ấy là nạn nhân.

          Trầm nhược cũng có thể là một phản ứng đối với sự mất mát thực thể hay huyễn tưởng do xa cách người thân, mất tình yêu hay mất lòng tự trọng. Các nạn nhân mắc chứng trầm nhược thường buồn rầu, ủ rũ, không tiếp xúc với ai, chán nản mệt nhọc.

          Nhiều nạn nhân với những ước vọng rất bình thường, đó là mong sao con cái lớn lên được học hành, ở nông thôn với hy vọng của bố mẹ được sống gần con cái lúc tuổi già, thế nhưng cuộc chiến vồ dập đến khiến nhiều gia đình ly tán. Con cái họ kẻ bị chết trên chiến trường, người bị thương nặng nhẹ và rời quân ngũ về với gia đình, đó là tại miền Nam. Riêng với những người lính miền Bắc theo lời thuật lại về sau những ai bị thương thường bị bắn chết luôn như đã hy sinh tại chiến trường. Đặc biệt với tù binh như vụ tàn sát các thường dân tại Huế, họ đã bắn chết, chôn sống trên sáu ngàn nạn nhân ngay tại chỗ vì dù có đầu hàng cũng không thể mang theo vì chính họ cũng không có cái ăn cái mặc để tự giải quyết cho chính mình. Cho nên chuyện giết người quả là rất dễ nhưng để tạo lập nên được một nền kinh tế cứu khổ cứu nạn thời hãy còn là chuyện xa vời.

          Nhiều người lớn tuổi trong thất vọng trở nên trầm nhược, họ treo cổ tự sát, có người tự tử liên tục nhiều lần, họ được dân làng cứu thoát nhưng cũng có người tự nã súng vào mình vì mức thương tật quá cao không muốn làm phiền lụy người sống. Có kẻ mở chốt lựu đạn như một sự kết thúc nhanh chóng dù thân xác bị xé tan ra thành từng mảnh. Cũng có người dùng thuốc độc. Tất cả những người này đều cảm nhận chắc chắn cái chết sẽ giải quyết được cho họ sự yên bình hơn là phải sống nhất là sống với những đau thương mất mát ngay chính trên cơ thể của chính mình.

          Các lá thư được gởi lại đều có nội dung sự ra đi với cái chết như sự kết thúc của một kiếp người đã nhở sinh ra làm người không giúp được ai nên sự ra đi để không làm phiền ai.

          Đến những trường hợp vô cảm (apathia) như một sự thờ ơ, dững dưng với tất cả những việc gì xảy ra chung quanh, hờ hững với hoàn cảnh của mình, không có gì gây được thích thú và phản ứng cảm xúc. Nạn nhân thụ động lờ đờ, không thiết tha gì cả, thích nằm lì tại chỗ nếu có thể, hoặc ngồi lánh xa một góc nào đó như thường gặp trong tâm thần phân liệt.

          Cuộc sống gần như không thỏa mái trong các trại tái định cư của các công dân miền Nam, riêng tại miền Bắc nó là một thứ nhà tù rộng lớn thường dẫn đến sự vô cảm đến không còn cá tính. Tại miền Nam về vật chất dư thừa đủ mọi thứ, thậm chí còn có đủ mọi kiểu chợ trời để tuôn hàng từ các kho của quân đội Đồng Minh Hoa Kỳ mang ra bán. Nhưng tại miền Bắc thiếu thốn đủ mọi thứ có thể tóm lược bài học về lịch sử dưới sự cai trị của Cộng sản dù bất cứ dân tộc nào một khi đã rước nó vào đều sẽ lãnh lấy hậu quả chết đói, chết khát. Tại miền Bắc vào thời chiến tranh này ‘hạt gạo phải chẻ làm tư’. Ngay cả cái tối thiểu muối cũng không có ăn. 

Sau ngày cuộc chiến chấm dứt 1975, những người dân miền Bắc vào Nam họ cho biết làm đến chức Bộ trưởng mới được ăn theo tiêu chuẩn đó - món cá thu. Người dân trong xanh xao chưa phải là bệnh nhưng người nào cũng trong sự ươm mầm bịnh vì từ sự thiếu dinh dưỡng mà ra. So sánh với người miền Nam cũng trong chiến tranh nhưng đều hồng hào và những người Việt cộng nằm vùng cũng được hưởng trong sự chùm gởi như vậy. Còn những người trí thức thiên cộng mà người chống cộng miền Nam hay gọi ‘ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản’ có khi họ béo tốt hơn dân thường cũng không là chuyện lạ bởi vì họ luôn ăn trên ngồi trước, tại miền Nam dù chỉ là một nền dân chủ non trẻ nhưng đã rất tôn trọng các quyền tự do của con người và chính ‘những kẻ đứng núi này trông núi nọ’ với những người miền Bắc vẫn chỉ là những tên tư sản theo quan niệm Mác Lê, cuối cùng chỉ là những tên bung xung con rối cho miền Bắc cho đến ngày vốn không tích sự gì và trở nên bất mãn nhưng mọi sự ‘không ai tắm hai lần trên một dòng sông’.

Những người dân miền Bắc khi đoàn người gồm các sĩ quan viên chức miền Nam bị đi tù ở miền Bắc, họ chứng kiến mặc dù phần lớn các phụ nữ hãy còn trẻ nhưng chỉ còn da bọc xương, hầu như suốt ngày không nói tiếng nào, ai cho thứ gì thì mừng, ai nhờ việc gì thì giúp, ai sai đâu chạy đó, mọi sự như phó mặc cho số phận, cũng có số ít ném đá người miền Nam do bị kích động tuyên truyền. Nhưng nhìn tổng thể cuộc sống con dân hai miền trong sự cách biệt cả về cách sống và cách nghĩ. Người miền Nam nói thẳng những gì mình nghĩ còn người miền Bắc vì sợ hãi mà chỉ nói ra những gì nguời khác đã nói.

          Chính những yếu tố vật chất và tinh thần như thế khiến các nạn nhân chiến tranh tại miền Bắc biến đổi dần đến không còn cá tính. Họ là những cá nhân còn đó nhưng vô hồn, mà nét chung về thể trạng của họ chỉ còn da bọc xương, hai má hóp vào, mắt lõm sâu, nước da xanh xao người nào cũng tái mét. Họ trở thành những hữu thể đặc thù, nạn nhân dưới chế độ triệt hạ của con người chứ không phải nhằm chữa trị con người. Và “vật cùng tất biến” như quan niệm triết lý Á đông. Các hữu thể đó được cải tạo dần đến mức không còn nhận ra chính mình rồi đi thật xa mãi mãi đến cái chết.  

          Các yếu tố di truyền như thông minh, bén nhạy, sáng tạo trong sinh hoạt hằng ngày chỉ còn ở mức thấp nhất. Thật vậy những đội lính trẻ miền Bắc chết tại miền Nam rất nhiều em chỉ ở độ tuổi mười ba, mười bốn. Và tại miền Nam cũng thế, số bạn trẻ được hoãn dịch vì lý do học vấn, gia cảnh… không là bao và trên chiến trường nghệ thuật quân sự không phải tất cả đều có yếu tố di truyền giống nhau.

          Việc giáo dục chỉ là phương tiện tuyên truyền lập đi, lập lại theo một khuôn mẫu không có gì mới, nhất là giữa lý thuyết và thực tế là sự khác biệt vô cùng. Nhưng thắng lợi cuối cùng vẫn luôn thuộc về kẻ đi triệt hạ con người như họ hô hào: Tất cả chỉ nhằm mục đích tẩy não, đó là một tiền đề của phe miền Bắc để dấy lên cuộc chiến đầy hận thù như chính những người từ bên trong hàng ngũ này về sau tự thú nhận. Nó không trên nền tảng nhân bản thật sự nhưng trên cái giả nhân, nên khi cuộc chiến chấm dứt những bức màn đen tối qua sự tuyên truyền lừa bịp bị vén lên dần: ý nghĩa thật sự của cuộc chiến như phe miền Bắc rêu rao chỉ là không tưởng.Tại miền Nam công việc giáo dục thông thoáng hơn, tất nhiên trong cái tự do, cho dù có nằm trong sự phát triển của tự nhiên có luật pháp cũng không thể không có kẻ hở. Nhân tài của đất nước đều đổ vào guồng máy chiến tranh của cả hai miền. Những người lính hai miền dưới sự quan sát trực tiếp khách quan không ai hung dữ bạo tàn, cho đến khi họ bị đưa vào guồng máy chiến tranh và thật sự trước cái chết của đồng đội lúc này họ mới thấy sự hận thù phát lên từ sự kích động của các chính uỷ trong mỗi binh đoàn.

          Những người bạn trẻ miền Nam rớt tú tài và đến tuổi động viên nhất là trong giai đoạn cao điểm của cuộc chiến với lệnh tổng động viên phải vào quân ngũ và sau đó nếu hy sinh và an táng ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà. Họ đều còn rất trẻ. Những người yêu, người vợ chưa cưới của họ mà từng người thân trong nửa chừng xuân. Tất cả đều có chung hội chứng không tha thiết gì với cuộc sống quá phù du này nữa. Mãi những năm về sau khi đã chấm dứt chiến  tranh, với nhiều người có lẽ lâu lắm những vết thương tâm hồn nầy mới dần phai khi vốn mỗi người Việt Nam trong bản chất đều có đức tính di truyền của lòng nhân hậu.

          Nhiều sĩ quan trong các binh đoàn miền Bắc, sau chiến tranh nếu có dịp tiếp xúc qua những liên hệ thân tộc họ đều biết rằng các chính uỷ Việt cộng lúc nào cũng động viên họ bảo trọng, đảng luôn luôn ở gần các đồng chí… Thế nhưng khi bị thương hầu như không còn người nào sống sót, ngay cả chính họ cũng trong thân phận với sự giải quyết gọi là ‘nhân đạo’ trong chiến tranh. Nên những gia đình có thân nhân trong đạo quân tiến vào Nam chớ có bao giờ nghĩ rằng ai đó đã bắn con họ mà chính những người chính uỷ trong binh đoàn của họ đã làm điều đó một cách lạnh lùng không thương tiếc. Phần lớn những người về sau gọi là đi tìm tình đồng đội, hay dựa vào giác quan thứ sáu để linh ứng tìm người mất tích: sự thật chính những chỉ huy còn sống sót hay ai đó trong đội ngũ đã chứng kiến mà nay ‘lạy ông các đồng chí đang ở bụi này’ hay cũng là một cách sẽ vứt bỏ được mặc cảm tội lỗi đã giết đồng đội trong chiến tranh. Những nỗi oan khiên kia có thể xa đi với những con người trở nên ngụy tín trong một cơ cấu chính quyền vong thân và làm cho con người đến tha hoá khi luôn tưởng mình có sứ mệnh giải phóng con người. Đúng là càng thần thánh hóa càng đến vô thần và càng tìm cách diệt thần lại tiêu diệt chính mình trước vì trong mỗi cá nhân đều có cái tôi rất lớn, cái Thần trí.

          Đối với cộng sản thì những gì thiên hạ có họ cũng cũng tạo nên nhiều hình thức thậm chí còn tuyệt vời hơn thế nữa, nhưng tôn trọng những gì được mọi người công nhận như những giá trị chung của nhân loại nhất là đạo đức thời họ tuyệt đối tìm cách ngầm chống đối lại. Các buổi học tập chính trị thường xuyên được tổ chức như nào hiến pháp đều có ghi đầy đủ việc tôn trọng các quyền cơ bản của con người: tự do tôn giáo, hội họp, thông tin... Nhưng họ mang bàn thờ Chúa Phật xuống rồi treo ảnh tượng lãnh tụ vĩ đại của họ cho đến khi nào những cái thây ma được đem ướp với bao tiền của từ thuế của dân bị mang vứt đi khỏi các lăng tẩm xa hoa.

          Trong thời chiến tranh này quả là người dân miền Bắc sống lại vào thời đồ đá, tất cả những phương tiện tối thiểu của sự chăm sóc y tế ban đầu của người dân hầu như không có. Chẳng hạn như việc bị chó dại cắn được mang đi chích ngừa quả là điều chỉ có với  các chuyên gia Liên Xô, Tiệp Khắc… hay con cái của cán bộ chóp bu thuộc bộ chính trị cục. Nhưng thật sự cũng là điều may mắn với người dân miền Bắc vào thời chiến tranh hãy còn rất ít chó và nếu muốn nuôi cũng không biết lấy gì cho ăn. Và nếu có còn con nào cũng sớm muộn không ngoài mục đích vì nhu cầu của con người đói khát trong chiến tranh mà vốn con người được định nghĩa: văn minh nhờ thịt.      

          Theo lời kể từ những người dân miền Bắc khi theo đội quân xâm lược vào Nam, những trường hợp chó cắn họ chỉ còn biết dùng các loại cây cỏ gọi là thuốc Nam, Đông y. Sau khi uống vào cũng lên cơn điên mấy hôm có người may mắn qua khỏi còn hầu hết mặc cho số phận đến đúng chu kỳ ba tháng mười ngày thì nạn nhân trào nước bọt, tru tréo như chó rồi chết. Những người đáng thương họ đều là những thường dân như nông dân chân chất trên mọi nơi thuộc miền Bắc Việt Nam.

          Tại miền nam Việt Nam, sau một đêm bị pháo kích không biết có bao nhiêu trường hợp bị chết một cách oan khiên, cho dù chỉ thương tích nhẹ nhưng phải chết vì mọi phương tiện cứu chữa trong đêm vào giờ giới nghiêm việc di chuyển có thể gây nên những cái chết kéo theo những người thân, do có thể một trái pháo vô tình nào đó từ ngoại ô của Việt cộng phóng bừa bãi vào thành phố. Ở miền Nam vào thời chiến tranh hầu như các thành phố, thị trấn vào ban đêm đều giới nghiêm, nghĩa là không được đi lại trừ quân đội.

          Cảnh tượng người vợ ôm xác chồng chết bên vệ đường vào sáng hôm sau đêm pháo kích mới thật bàng hoàng. Mọi người thân nỗ lực chuyển cho được nạn nhân đến bệnh viện rất gần nơi quả pháo rơi trúng vào gia đình này, nhưng rồi một gan tấc cũng không thể đi về phía bệnh viện được vì pháo hai bên bắn như mưa. Tất cả theo lời kể đã nằm rạp người xuống với người thân, một vết đạn ngay đùi không nặng lắm nếu kịp khâu lại nhất là với thuốc cầm máu nhưng phải chịu chết vì máu đã tuôn ra như mạch nước hoà vào dòng chảy của tang thương đầy nước mắt trong một cuộc chiến mà thật sự không đáng xảy ra. Nhiều người và thật nhiều sau hằng đêm hay ngay trước lúc đến trường, cũng như hình ảnh ‘người phu quét tường dựng chổi đứng nghe’ không còn nữa, người phu nào trong giai đoạn quyết liệt của cuộc chiến cũng thả chổi nghiêng người nằm sát sạp xuống mặt đất vì quá sợ những quả pháo kích bắn bừa bãi vào thành phố miền Nam của phe Cộng sản miền Bắc.

 

Nguyễn Quang

 

* Trích từ tác phẩm Tâm Lý Thần Kinh Chiến Tranh VN của N. Quang

 


.
,

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuối năm là lúc con người nhìn lại về giá trị cuộc sống. Một bài viết trên trang mạng The Conversation nêu vấn đề về những vực thẳm chính trị, các cuộc chiến tranh, áp bức… và con người vì thế cảm thấy vô vọng và bất lực khi chứng kiến những thế lực đen tối diễn ra khắp nơi trên thế giới. Liệu chúng ta có thể làm được điều gì đem lại thay đổi trước những bi hoại này hay không?
Danh hiệu “Nhân Vật Của Năm” do TIME bắt đầu từ năm 1927 – theo truyền thống được trao cho những người có ảnh hưởng đáng kể trong các sự kiện toàn cầu, từ chính trị đến văn hóa, môi trường, nghệ thuật. Những người được chọn đóng vai trò như một “thước đo phong vũ” về sức lan tỏa trong xã hội đương đại. Ảnh hưởng đó, theo tiêu chuẩn do chính TIME đề ra, có thể là “for better or for worse – làm cho thế giới tốt đẹp hơn hoặc tệ hại hơn.”
Tiễn 2024, thế giới sẽ chào đón một năm mới 2025 mang theo cả bóng tối lẫn ánh sáng. Các cuộc xung đột, sự phân cực chính trị và những rủi ro khôn lường là lời nhắc nhở về sự bất ổn của thời đại. Nhưng đồng thời, khả năng phục hồi kinh tế, sự phát triển công nghệ, tinh thần hợp tác quốc tế, hơi thở và sự sống còn bất khuất của từng người mẹ, từng đứa trẻ vực dậy và vươn lên từ những đống gạch vụn đổ nát ở Ukraine, ở Gaza, ở Syria… cũng là cảm hứng và hy vọng cho tương lai nhân loại. Nhà văn Albert Camus đã viết: “Giữa mùa đông lạnh giá nhất, tôi tìm thấy, trong mình, một mùa hè bất khả chiến bại.”* Thế giới năm 2025, với tất cả những hỗn loạn, vẫn mang đến cơ hội để con người vượt qua và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, tử tế hơn. Đó cũng là lời chúc chân thành cuối năm của toàn ban biên tập Việt Báo gửi đến quý độc giả: một năm 2025 tràn trề cơ hội và hy vọng.
Trong ba năm học gần đây, PEN America đã ghi nhận hàng loạt trường hợp cấm sách xảy ra trên toàn nước Mỹ, đặc biệt trong các trường công lập. Những nỗ lực xóa bỏ một số câu chuyện và bản sắc khỏi thư viện trường học không chỉ gia tăng mà còn trở thành dấu hiệu của một sự chuyển đổi lớn hơn, đặt ra câu hỏi nghiêm trọng về tương lai của giáo dục công lập. Việc kiểm duyệt này phản ánh một xu hướng đáng lo ngại: sự tập trung vào việc kiểm soát nội dung văn hóa và giáo dục, thay vì khuyến khích học sinh tiếp cận kiến thức đa chiều.
Syria đang sống trong một bước ngoặt lịch sử sau khi chế độ độc tài sụp đổ nhanh chóng và Bashar al-Assad trốn sang Nga để tị nạn. Các nhóm nổi dậy chiến thắng đang cố gắng duy trì trật tự công cộng và thảo luận về các kịch bản cho tương lai. Lòng dân hân hoan về một khởi đầu mới đầy hứa hẹn pha trộn với những lo âu vì tương lai đất nước còn đầy bất trắc. Trong 54 năm qua, chế độ Assad đã cai trị đất nước như một tài sản riêng của gia đình và bảo vệ cho chế độ trường tồn là khẩu hiệu chung của giới thân cận.
Các số liệu gần đây cho thấy những thách thức mà nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối mặt để phục hồi kinh tế cho năm 2025, khi quan hệ thương mại với thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc có thể xấu đi cùng lúc mức tiêu thụ trong nước vẫn sụt giảm. Và thật sự thì nền kinh tế Trung Quốc tệ đến mức nào? Việc đặt câu hỏi này ngày càng trở nên hợp lý khi Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng sản xuất trì trễ và tiền tệ mất giá kéo dài trong những năm gần đây. Đặc biệt, chính quyền Bắc Kinh dường như không muốn công khai toàn bộ thực trạng.
Chiều ngày Thứ Ba 17/12, tòa án New York kết án Luigi Mangione 11 tội danh, bao gồm tội giết người cấp độ 1, hai tội giết người cấp độ 2 cùng các tội danh khác về vũ khí và làm giả danh tính. Theo bản cáo trạng, một bồi thẩm đoàn ở Manhattan đã truy tố Mangione về tội giết người cấp độ hai là tội khủng bố. Tòa đã kết tội hành động của Luigi Mangione – một hành động nổi loạn khó có thể bào chữa dù đó là tiếng kêu cuối cùng của tuyệt vọng.
Ngay từ thời điểm này, cho dù chưa chính thức bước vào Tòa Bạch Ốc, tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa hẹn một chiến dịch bài trừ di dân lớn nhất lịch sử Mỹ. Những cuộc kiểm soát, bắt bớ, trục xuất di dân dự kiến sẽ diễn ra với qui mô lớn trong vài năm tới. Nhiều sắc dân nhập cư ở Mỹ sẽ phải lo lắng, nhưng cộng đồng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sẽ là cộng đồng di dân gốc Mỹ Latin. Lời hứa này đang làm hài lòng những người Mỹ xem dân nhập cư là kẻ cướp đi việc làm và quyền lợi của mình. Rất đông trong số này thuộc các cộng đồng di dân, trong đó có cộng đồng gốc Việt. Tuy nhiên, có bao nhiêu người thấy được toàn cảnh ảnh hưởng của những chính sách bài trừ di dân đến nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ?
Trong tài liệu của Thư Viện Quốc Hội ghi rằng, nguồn gốc của quyền ân xá trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đến từ lịch sử Anh quốc. Quyền ân xá xuất hiện lần đầu tiên dưới thời trị vì của Vua Ine xứ Wessex vào thế kỷ thứ bảy. Mặc dù tình trạng lạm dụng quyền ân xá ngày càng tăng theo thời gian, dẫn đến những hạn chế sau đó, nhưng quyền ân xá vẫn tồn tại trong suốt thời kỳ thuộc địa của Mỹ.
Tôi cộng tác với tuần báo Trẻ (tờ báo có nhiều ấn bản nhất tại Hoa Kỳ) gần hai chục năm qua. Sự gắn bó lâu dài này không chỉ vì tấm lòng yêu nghề (và thái độ thân thiện cởi mở) của ban biên tập mà còn vì chút tình riêng. Mỗi tuần Trẻ đều dành hẳn một trang báo, để trân trọng giới thiệu đến độc giả hai ba vị thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa) đang sống trong cảnh rất ngặt nghèo ở quê nhà. Nhìn hình ảnh đồng đội của mình đang ngồi trên xe lăn, hay nằm thoi thóp trong một gian nhà tồi tàn nào đó – lắm lúc – tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Liệu có còn ai nhớ đến những kẻ đã từng vì đời mà đi không vậy?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.