Hôm nay,  

Tuý Kiều Phú

15/11/201520:49:00(Xem: 4408)

 

Tuý Kiều Phú

Bản quốc ngữ QN 2015

(phiên âm và chỉnh sửa theo tài liệu xưa)

Nguyễn Văn Sâm thực hiện

 

(03)     Nàng Túy Kiều là con viên ngoại,

Lúc sanh thành ở tại Bắc Kinh,

Thuở Túy Kiều còn niên thiếu ấu sinh,

Ba chị em xúm xít ngồi chơi trước cửa.

05        Tên đâu lạ bất tường hương sở,

Xưng rằng thầy tướng sĩ du phương.

Vừa ngẫu nhiên bước tới gặp nàng,

Đứng dừng lại mới xem qua tài tướng.

Như nàng nầy là:

Dung nghi đến thiên kim vạn lượng,

10        Uổng cho nàng tuyết nguyệt phong hoa.

Tiết thanh minh trong lúc tháng ba,

Chị em rủ nhau đi tảo mộ.

Tiếng lạc ngựa chàng Kim tới đó,

Gặp Túy Kiều lại với Túy Vân,

15        Vương gặp Kim vội vã chào mừng.

Người bạn học Khổng môn đồng nhứt mạch.

Bóng hầu xế vó câu nhẹ tếch,

Ba chị em xe ngựa ra về.

Đoái xa xem kìa ngọn tiểu khê,

20        Bên đường thấy nấm mồ vô chủ.

Vương Quan dẫn sự xưa tích cũ,

Rằng Đạm Tiên là  (04) gái nhà trò.

Biết mấy nơi sông hẹn núi hò,

Nay chín suối mồ vô nhân chủ.

25        Kiều nghe mấy lời xưa tích cũ,

Nước mắt đầy nhỏ giọt dầm khăn.

Túy Vân mới buông lời dức[1] chị rằng:

‘Hơi đâu khóc những người bạc mệnh.’

Kiều nghe mấy lời dùn dằn ở nán,

30        Thương thân người khác thể thân ta

Đốt chút hương khấn vái gọi là

Linh hồn hưởng của ta hành lộ

Vừa dứt tiếng bỗng đâu trận gió,

Hồn Đạm Tiên ngọn cỏ gót hài.

35        Kiều làm thơ từ tạ một bài,

Rút trâm vạch da cây cổ thọ,

Đêm nằm thấy Đạm Tiên tỏ rõ,

Trao mười bài thơ nọ dặn rằng:

Sông Tiền Đường là chốn mãn căn,

40        Tuần huờn trải mười lăm năm lưu lạc.

Kiều tỉnh giấc nghĩ thôi bát ngát |,

Dựa hiên ngồi than thở năm canh,

Mẹ thức nghe bèn hỏi sự tình,

Kiều rằng thấy Đạm Tiên mách bảo.

                        Ôi thôi thôi:

45        Ngậm ngùi nghĩ thâm ơn vị báo,

Nghĩ (05) thân con còn có ra gì.

Mẹ dức rằng con chớ sầu bi,

Giải lòng trẻ thiệt là mộng mị[2].

Bỗng đâu đáo Xuân qua Hạ chí,

50        Kim quyết tình kết chỉ xe dây,

Mướn phố người tạm ở gần đây,

Trước ôn cố sau vầy cang lệ,

Kiều thương Trọng tấm lòng đáo đ,

Trọng thương Kiều tấc dạ bâng khuâng,

55        Trời khiến xui đôi lứa nợ[3] nần,

Khiến cho Kiều ra chơi non bộ,

Kim chợt thấy buông cầm, lại đó[4].

Kiều h ngươi lật đật liền vào.

Bỗng dắt  trâm nơi chốn vườn đào,

60        Nẻo cội thọ chàng Kim xảy đặng.

Bước lỡ bước nên chàng dùn thẳng[5].

Đứng trông Kiều ra kiếm, trả cho.

Gặp mặt nhau đôi lứa hẹn hò,

Một lời nguyện trăm năm tơ tóc.

65        Chiếc kim xuyến giao cho bạn ngọc,

Vuông khăn nầy nắm lại trao tay.

      Bỗng ngoại gia sanh nhựt đến ngày.

Song thân với hai em qua đó,

Kiều sắm sửa lễ mừng chúc thọ.

70        (6) Rnh việc nhà rồi lại lén qua,

Kim gặp Kiều trò chuyện dan ca[6],

Đàn mãn tiệc mới sang qua nghề vẽ[7],

Cô nó ôi:

Biết mấy khi đặng chung tình lặng lẽ[8],

Tấm trăng mành chỉ thệ non sông.

75        Ngoài cửa nghe khua tiếng tiểu đồng,

Thơ thúc phụ Liêu Dương đã tới.

Trời nỡ khiến kẻ trông người đợi.

Vì chữ tang nên dứt chữ tình,

Nay dừng cương còn ở Bắc Kinh,

80        Mai giục vó Liêu Dương ngàn dặm.

Mối sầu trải một ngày một thẳm,

Tấc đường đưa càng bước càng xa.

Đưa ơn nhơn một đỗi quan hà,

Cùng bạn ngọc cho phỉ tình ân ái.

85        Kim dời gót rồi Kiều trở lại,

Tấm trăng Đoài thỏ bạc lân la[9],

Sanh nhựt xong cha mẹ về nhà,

Song thân với hai em vô cửa.

Bỗng đâu đến đầu trâu mặt ngựa,

90        Thằng bán tơ gieo họa thình lình,

Việc tưng bừng ai nấy đều kinh,

Song thân với một (07) em chịu lụy,

      Bởi vậy cho nên:

Kiều mới dứt tình chung thủy,

Bán mình nầy chuộc tội cho cha.

Như tôi giờ:

95        Lươn lấm đầu bao quản xấu xa,

Đem thân bán cho Giám Sanh họ Mã,

Ai dè mắc phải tay độc quá,

Bị Tú Bà đày đọa tấm thân,

Bởi Sở Khanh gia hại phong trần,

100      Trao tích việt bởi tin nên mắc.

Xúm nhau lại bày mưu khổ khắc.

Ép uổng Kiều, đày đọa tấm thân.

Trời khiến may gặp mối Châu Trần,

Đem thân dựa nhờ nơi chàng Thúc,

105      Mới bợ ngợ[10] chưa tường trong đục,

Đơn thúc ông khống tử quan nha,

Nhờ lịnh trên phân xử giải hòa,

Bề ăn ở cũng đà yên phận,

Hay đâu nỗi con Hoạn thư cừu hận,

110      Đã đốt nhà lại rưới thuốc mê,

Sai Khuyển, Ưng sang bắt đem về

Khiêng bỏ trước dinh quan Lại Bộ.

Kiều tỉnh giấc mặt nhìn tứ cố,

(08) Nhà cửa đâu lầu gác nào đây,

115      Quân giáo nghiêm hầu hạ đông tây,

Biển  trủng tể liêu quan[11] treo tỏ rõ.

Giường bát bửu một bà ngồi đó.

Quở vang vầy bốn phía dạ rân,

Quân ra oai đều tuốt kiếm trần,

120      Kiều khấp khởi[12] hồn nương mây bạc,

Trên lớn tiếng nhiều điều quở phạt.

Dưới cúi đầu sống thác nào hay,

Quân liêu hoàn roi trước[13] ra tay.

Đá cũng nát huống chi là xương thịt.

125      Rồi lại cắt theo quân gia dịch,

Đày tấm thân tóc quấn, da chì.

Lầu Hoạn Thư có một mụ dì,

Thương Kiều mới dạy điều hơn sự thiệt.

Kiều than thở thân ôi thảm thiết,

130      Tấm thân nầy đày đọa bằng hai.

Trời sanh chi những kẻ sắc tài,

Mà nỡ để lầm tay quá ngặt,

Thứ nầy là thứ Hoạn Thơ trở mặt.

Bắt Kiều về làm mọi hoa nô.

135      (09) Thúc sanh về chàng mới bước vô,

Hoạn Thơ bắt Kiều ra thết đãi.

Đày cho đến rồi làm mặt phải,

Cho ra chùa thủ tự chép kinh,

Sanh thương Kiều lén tới trần minh.

140      Hay đâu nỗi con Hoạn Thơ toan hại!

Kiều biết trước lánh mình đã phải.

Lén cắp đồ chuông khánh hộ thân.

Đêm tách mình qua ngọn đông lân,

Trời hừng sáng thiền môn tới đó.

145      Giác Duyên mới sự tình chưa rõ.

Hỏi nàng Kiều. - Người ở Bắc Kinh?

Cho tạm đây chờ đợi sư huynh,

Xin hỉ cúng chuông vàng khánh bạc.

Chịu hẩm hút Kiều cùng vãi Giác,

150      Khi kệ kinh nhờ bữa tương dưa,

Vãi Giác thấy Kiều thông tuệ vừa ưa,

Lần hồi ở nhờ chùa sáu tháng,

Số Kiều hỡi còn nhiều hoạn nạn,

Xui cho người đất Việt sang chơi,

155      Giở đồ xem chuông khánh vừa rồi,

Nhìn thiệt của Hoạn Thơ quả quyết..

(10) Vãi nghe nói ngay gian chữa biết,

E lửa thành họa tới cá ao,

Thương để lòng biết liệu làm sao,

160      Khuyên Kiều hỡi kiếm nơi ẩn dạng.

Kiều từ giã Phật môn lánh nạn,

Bước ra ngoài cảnh lạ bơ vơ,

Phải kiếm nơi khuya sớm cậy nhờ.

Lần hồi nẻo Đồng quan cõi lạ.

165      Chim lánh ná tìm cây mà đổ,

Nào hay đâu mắc phải Bạc Bà.

Mụ khoe rằng mụ có cháu nhà,

Buộc Kiều kết duyên cùng Bạc Hạnh.

Nghĩ Kiều đặng buồm loan nhẹ cánh.

170      Đem Kiều về qua bán Châu Thai.

Cửa lầu xanh cứ nghiệp cũ hoài.

Tiếc bấy thế mua hoa bán nguyệt!

Kiều than thở thân ôi thảm thiết,

May đâu người Từ Hải sang chơi.

175      Kiều bước ra tiếp khách chào mời.

Từ thấy vậy thỏa lòng mong ước.

Duơn xảy gặp kết nghì mai trước.

      (11) Huờn kim ngân đem Túy Kiều về,

Ngô đồng vừa gặp phụng hoàng thê.

180      Kíp cất dinh cho nàng Kiều ở đó.

Rồi Từ Hải bôn ba thượng lộ,

Kéo đem về mười vạn tinh binh.

Lúc Kiều về nhờ chữ hiển vinh,

Ơn oán thảy một tay phân xử.

185      Rồi Từ Hải cử đồ đại sự.

Phân hùng binh trực chỉ đế kinh.

Tử vi hùng gia nội triều minh,

Chiếm ải ngạc anh hùng cự quyết.

Tay khuấy rối đất trời oanh liệt,

190      Những trên đầu nào có biết ai.

Rạch sơn hà văn võ chia hai,

Cõi Nam thảy năm tòa tiêu đỗ.

Bởi nghe thiếp đêm khuyên ngày dỗ.

Trung kia tròn hiếu nọ đặng đền[14].

195      Nghe lời Kiều, Tử thất cơ binh.

Dễ đâu Hải lầm tay hạ sĩ[15].

Gái quốc sắc khiến anh hùng phải lụy.

Lâm trận đồ hà úy tử sanh,

Bát  hướng hồi, Tôn Hiến phục binh.

200      Sa tử tại Lâm Tri thử xứ

Yên hùng tử tráng hùng nào tử,

Vững như trồng nhứt trụ kình thiên.

Kiều than Từ khôn xiết lụy liên.

Bởi nghe thiếp nên ra thể ấy.

(12) Từ vương ôi!

205      Duơn tưởng vậy nào hay đâu vậy[16]!

Tấm lòng nầy phải quấy Trời hay.

Duơn thấm duơn chưa bấy nhiêu ngày,

Nghĩa mặn nghĩa tôi còn mang ơn đó.

Tiếc là tiếc trăm trận nên oai võ,

210      Nay chẳng khác ngọn đèn xao dưới gió.

Uổng là uổng trăm năm công khó.

Từ giả như bọt nước chảy dòng sông[17].

Lời khuyên chồng té ra lẽ tôi giết chồng.

Mặt mũi nào tôi đứng trong vòng trời đất.

      215      Từ nghe mấy lời nàng than dứt.

Dào mặt nhìn giọt lụy ngã xiêu

Hồ sai quân ra rước nàng Kiều.

Vào dinh nội cho ông phân hơn thiệt.

Giúp lời đặng ơn nàng, ta cũng biết.

220      Vững miếu đường cơ nghiệp vầy nên.

Quân bây ôi:

Chén rượu đào quân bây rót mời khuyên.

Nầy nầy:

Châm chuốc đờn chơi vài chập[18].

Kiều vưng dạy nhỏ dòng lụy ngọc.

Trổi khúc đàn nghe thấu về đâu.

225      Rao một câu gió thảm mưa sầu,

Bốn dây chảy máu đầu năm ngón.

Hồ nghe tiếng Kiều đàn ngành ngọn.

Ờ! Ờ !

Hèn chi Từ thác cũng là biêu.

Xét ra lực tam quân bây thua giọng nàng Kiều.

230      Xô chẳng rúng nàng than mà ngã.

Tiêu dắng dỏi đêm thanh Cai Hạ.

Đệ tử sầu rời rã bát thiên,

Lúc Ngu Cơ tự vận hoàng tuyền,

Thuở Hạng Võ đầu trao cho Đình Trưởng.

235      (13) Gái quốc sắc như con sóng lượn,

Mặt anh hùng như chiếc thuyền cây,

Lúc hồng nhan mỏng mảnh mấy nhiêu ngày.

Tài tình nhứt phiến như thiên cổ lụy.

Hồ đương lúc chén say không kịp nghĩ,

240      Bắt Kiều đòi thổ lộ trăng hoa,

Kiều hẵn hòi cượng lý phân qua,

Nại ra:

Tôi đã giết chồng rồi lấy chồng sao cho phải,

Hồ tỉnh giấc biết mình làm phi ngãi.

Đem Kiều về tra cán thổ quan,

245      Đưa Kiều về tới sông Tiền Đường,

Kiều xem thấy minh mông đại hải

Kiều mới hỏi, quân chèo thuyền bẩm lại:

‘Sông tiền Đường là tại chốn nầy.’

Kiều mới vái hồn Đạm thị cố tri,

250      Hẹn hò với trước sao sau vậy.

Vừa dứt tiếng gieo mình chốn ấy,

Tiên đưa Kiều vào chống giang tân[19].

Thuyền Giác Duyên ngừa đón thi ơn,

Giữ lời dặn đạo cô Tam hợp.

255      Qui kỳ đại  thàng ngày giải giáp.

Kết thuyền chài hai chiếc giăng sông,

Vớt đặng nàng nhờ đức Ngư ông,

Rồi chở thẳng nàng lên am tự,

Từ (14) Kim Trọng qui tang hồi xứ,

260      Mấy năm chầy nay mới sang đây,

Thuở xưa kia, nhà cửa chỗ nầy.

Nay dời đổi chỗ nào không biết.

Hỏi lân lý cho tường hơn thiệt,

Do lão ông từng biết cổ kim,

265      Trọng nghe qua  phăng mối kiếm tìm,

Kim, Vương gặp anh em mừng rỡ,

Ông Vương ngoại vợ chồng than thở.

Nhắc chuyện rồi đi tới nhà xưa,

Vịn vai chàng nước mắt như mưa,

270      Kim qua đó Kiều đà đi mất.

Nghe biện bạch mấy lời giao tất[20],

Cả nhà đều lụy ngọc nhỏ sa.

Nghĩ từ cơn đòi đoạn xót xa,

Nhớ nhiều nỗi, ngùi ngùi thảm thiết.

275      Kim, Vương đọc lời Kiều từ biệt.

Nước mắt dầm không xiết lòng đây.

Đưa duơn em kết chỉ xe dây.

Trả duơn chị sơn minh hải thệ.

Đôi kim xuyến em còn dành để,

280      Tấm gương nguyền với bức tờ mây

Vuông khăn là còn để lại đây,

Chàng thấy đó thời tường tâm sự,

Đồ giao ước, của kia còn giữ,

Duơn Châu Trần nghĩa nọ tạc ghi,

285      Kim nguyện cùng thiên chiếu địa tri:

‘Tôi còn, cũng gặp nàng có thuở!’

Biển dầu cạn lòng Kiều còn nhớ,

Non dầu mòn tình Trọng chẳng quên,

Dây cát đằng tưởng đã vầy nên,

290      Nhờ bóng (15) mát bá tòng che chở.

Duơn chẳng gặp thôi thời đã lỡ,

Mối tơ ai kia gỡ cho xong.

Thời lai đà gặp hội mây rồng,

Bảng trời mở khôi khoa Nhâm Ngọ,

295      Kim, Vương kịp phó kinh tại đó,

Ngư đắc tấn cửa Võ thành long,

Chiếm khoa đầu huynh đệ đồng tâm,

Thang mây bước cung trăng chiết quế,

Quải kim bảng xuân quang cập đệ,

300      Cửa thảo phùng cam võ rất xinh.

Lưỡng Trạng Nguyên phong giữa trào đình,

Nơi ngọc các yến diên thết đãi,

Long vân hội quân thần thiên tải.

Nay thỏa tình đăng hỏa thập niên.

305      Rồi chỉ sai ra trấn Hà biên,

Vương quan lãnh Chiết Giang Phước Kiến,

Kim Trọng trấn Nam Bình biên cảnh.

Hội nhứt trường lưỡng Trạng vinh qui,

Đồng lên xe giục ngựa khởi kỳ,

310      Phút đã tới cố hương quê ở,

Ông viên ngoại vợ chồng mừng rỡ,

Tế, nhi nhờ lưỡng lộ hoàng ân[21].

Hiệp một đoàn phụ tử dời chơn,

Đường ngàn dậm quan san đã tới,

315      Kim Trọng luống rày trông mai đợi,

Mối tơ hồng bối rối lòng đây,

Thương nàng Kiều khôn nỗi làm khuây,

Mong treo ấn từ quan, bộ bộ.

Sông cùng suối chẳng (16) nài lao khổ,

320      Bụi cùng bờ sống thác cũng ưng.

Nẽo Châu Thai ngàn dặm xa chừng,

Đường xa tít[22] muôn trùng dịu vợi[23].

Lâm Thanh với Lâm Truy cũng tới,

Người một nơi tầm túi một nơi.

325      Thấy mênh mông góc biển chơn trời,

Bề thương nhớ lòng đinh dạ sắt,

Ngành ngọn hỏi cho tường tin tức,

Sông Tiền Đường là mộ hồng nhan,

Giờ phải qua cho tới Tiền Đường,

330      Lập úy tế hiền nương tại đó.

Người chin suối tấm lòng chưa tỏ,

Nguyện linh hồn một độ siêu thăng.

Tống tờ mời chu tự chúng tăng,

Các tích việt đạo ni cô vãi,

335      Trung vưu đã đặng ngày tế xấu

Đợi Tý thời kích cổ khởi chung.

Hương án bày màn trướng tứ tung.

Thượng bài vị Túy Kiều trong đó.

Giác Duyên thấy sự tình chưa rõ.

340      Kiều nào còn Kiều thác nào đây,

Lưỡng nguyên nghe mới thốt lời nầy,

Bèn đòi hỏi cho tường tâm sự.

Vãi rằng thấy danh đề tánh tự,

Túy Kiều còn ở tại am thanh,

345      Hay là người trùng (17) tánh trùng danh.

Vãi thấy vậy buông lời mới hỏi,

Ông viên ngoại vợ chồng nghe nói,

Vội vã mừng thăm hỏi ni cô.

Từ  phân tay kẻ Hán người Hồ,

350      Mấy năm chẳn mẹ Nam con Bắc,

Vãi nghe nói tuông hàng nước mắt.

Thương thân người lưu lạc mấy lâu,

Muốn bây giờ cho gặp mặt nhau,

Theo cùng vãi am mây lên đó.

355      Cha cùng mẹ rễ con thượng lộ,

Đồng ra đi xe ngựa rần rần,

Hiệp một đoàn thẳng tới am vân,

Vừa tới đó Giác Duyên kêu cửa,

Kiều lật đật chạy ra mở cửa,

360      Hiệp mặt rồi mừng rỡ mẹ con,

Cách mấy năm muôn trượng[24] sơn hà.

Lẽ trời gặp tan rồi lại tụ,

Ấy Kim Trọng là người nguyền cũ,

Vương Quan đây cốt nhục đồng bào.

365      Vậy chẳng hay người ấy người nào,

Kiều chưa biết hỏi rằng ai đó.

Vãi mau miệng nói cho Kiều rõ,

Nầy là chồng (18) nầy mẹ nầy cha,

Vương Quan đây cốt nhục ruột rà[25],

370      Em dâu đó vốn là người ấy.

Kiều cũng đã lâu ngày quên đấy,

Mặt nhìn tường dường thể chiêm bao,

Mười lăm năm xiết kể ngùi nào,

Thân tưởng đã gởi xương cho đất khách.

375      Cha với mẹ nghe phân biện bạch,

Biết lòng nào xiết kể lòng thương,

Ơn cô ni[26] thiên cữu địa trường,

Nghĩa sư trưởng hoàn sanh cãi tử,

Hiệp một đoàn trực khứ Triết Giang,

380      Tấm lòng Kiều bịn rịn chưa an,

Đã tẩy sạch trần duơn lánh tục,

Dĩa dưa muối đã cam một lúc,

Quyết tu trì cho hết tiếng thị phi.

Nghĩ thân nầy còn có ra gì,

385      Tưởng đã gỡi thân cho cây cỏ,

Mẹ phân lại thủy chung con rõ,

Kim cựu nguyền nghĩa nọ ngày sau.

Vãi mở mang lời nói ngọt ngào,

Trời dành để tại do nợ trước,

390      Người tốt phước nên còn hậu phước,

Căn nợ còn nên một gặp nhau.

(19) Ngỡ mấy lâu chếch mác sóng đào,

Nay hội ngộ sự do tiền định,

Nghe lời vãi Kiều dừng bịn rịn,

395      Cơ hội nầy tại máy thiên cơ,

Kiều cúi đầu tạ chốn dưỡng xưa,

Giã cửa Phật về theo cha mẹ.

Ơn nuôi dưỡng sánh tày ơn đẻ,

Cứu tử nầy vẹn vẻ hoàn hai.

Đồng giang tay bái biệt trở giày,

400      Tạ sư trưởng Nam Mô A Di [Đà] Phật.

Xe ngựa chạy rần rần chật đất,

Đạo quân binh rợn rợn tối trời,

Triết Giang thành phút đã tới nơi,

Túy Kiều mới phân lời hơn thiệt,

405      Liêu Dương hỡi Kim Kiều cách biệt,

Nay gặp rồi vầy hiệp giao hoan[27],

Chén quỳnh tương tay rót mời chàng,

Trả lời hẹn, duơn em thế chị.

Trời đã dành duơn chị về em,

410      Vậy thôi thời thân phận đã cam,

Còn mang tiếng bụi hồng chi nữa!

Tiếng nhơ nhuốc mấy sông khôn rữa,

Mười  lăm năm ong bướm đãi đằng,

Xưa chỉn (20) thề chứng có bóng trăng,

415      Nay lỡ nguyện thấy nhau mà thẹn.

Kim rằng có sông hò núi hẹn,

Lúc gia đình lâm biến biết sao,

Kim gặp cơn bình địa ba đào,

Chữ trinh vẹn sao tròn chữ hiếu.

420      Ơn tình xưa đẹp còn để lại

Huống chi nàng họa gởi tai bay,

Bán mình trả thảo cho thân là phải,

Lòng chẳng nại thiên sơn vạn hải,

Bấy lâu nguyền đáy biển mò kim[28],

425      Lời nhớ nhau vàng đá mà tìm,

Nào phải tưởng trăng hoa chi đó,

Đêm nay đặng gió thanh trăng tỏ,

Ít tiếng đàn, thơ vận vài câu,

Kẻo bấy lâu anh thảm em sầu,

430      Nay xum hiệp vinh huê phú quí,

Kiều vưng dạy cho tròn bề chung thủy,

Trổi tiếng đờn cho hân hỷ sự duyên,

Kim nghe qua hết nỗi ưu phiền,

Đoạn trường đã Tiền Đường rửa sạch.

435      Cùng nhau cạn chén (21) quỳnh biện bạch,

Mười lăm năm hai ngả Sâm Thương,

Kiều thở than bướm chán ong chường,

Lầu xanh đã huê tàn trăng khuyết,

Thân ta vậy xin bày hơn thiệt,

440      Chẳng hổ han trần cấu hay sao?

Bực bố kinh đâu dám dự vào,

Mà mang mặt nhìn cho tường tận,

Hiệp hai bạn chuyện trò phân cạn,

Ác Tây chìm trời rạng vừng đông

445      Kiều phân rằng nghĩa đợi ơn trông,

Trình cha mẹ cùng chàng đặng tỏ,

Vân Am Tự cho con lên đó,

Hậu bạc  nầy cho thỏa chí đây,

Phải theo tôi một cuộc xum vầy,

450      Đền ơn đó nghĩa người dưa muối.

Nếu chẳng vậy lòng con thêm tủi,

Chịu ơn dầy khoăn khoái |[29] phía sau,

Đến cửa tiền nàng mới cúi đầu,

Vân Am đó thầy đâu chẳng thấy,

455      Lòng sở nguyện đền bồi nghĩa ấy,

Dạ chí lâm báo đáp ơn sâu,

Giác Duyên sư trưởng hỡi đi đâu,

Bỏ chùa lại cho cỏ sầu huê héo,

Người đi mất khôn phương tin tức,

460      Biết no nao (22) trả đặng ơn thầy,

Nhớ khi chén gạo dĩa rau

Bao nhiêu lúc thảm sầu đoài đoạn,

Bao giờ gặp mặt thầy cho tạn.

Ơn chưa đền nghĩ tới càng thương,

465      Nàng Kiều vốn thiệt hiền lương,

Chẳng qua là:

Trời khiến phải hồng nhan nghiệp chướng,

Lòng hiếu từ thiên cao phũ ngưỡng,

Bán mình nầy trọn thảo với thân[30].

Hai mươi bốn thảo trong trần,

470      Kiều đà chọn một bán mình chuộc cha.

 

Hết

 

Nguyễn văn Sâm

(khởi phiên âm  2006 Texas, dò lại trong tháng 09,  2015,

tại nhà họa sĩ LBDNhiên, Lausanne, Thụy Sĩ.)

 

blank

 

 

  

 



[1] Dức 弋: Rầy la, rầy rà.

[2] Mẹ  nói rằng đó là điềm mộng mị để con khỏi buồn.

[3] Bản Nôm viết nợ 𡢻 bằng chữ trái 債. Có thể coi như chữ Nôm đọc nghĩa. Lấn cấn trong chữ nầy bản QN đọc thành hai âm: Trời khiến xui đôi lứa trái nợ nần.

[4] Buông đàn, đi tới.

[5] Dùn thằng: Do dự, nửa muốn bước tới nửa không HTC không có mục từ dùn thẳng. 

[6] Dan ca : Nói chuyên dông dài không muốn rời, không muốn kết thúc.

[7] Bản Nôm viết chữ nghề 藝 thành ra như chữ yến 燕.

[8] Khó có dịp chỉ hai đứa mình chẳng có người ngoài.

[9] Cô đơn nhìn trăng để trông chờ.

[10] Bợ ngợ 咟𡂂: Còn lạ, chưa hiểu rõ chuyện gì.

[11] Trủng tể liêu quan 冢宰 繚官 đây chỉ có nghĩa là quan lớn

[12] Khấp khởi 㕸𡸈: Mừng lắm. Mng khp khi.

[13] Roi trước: Roi tre, roi trúc, nói theo giọng Nam thời trước như: ghế ỷ trước, nước Thiên Trước

[14] Chàng được tiếng trung, thiếp được hiếu khi về với cha mẹ.

[15] Hạ sĩ 下仕: Kẻ sĩ hèn hạ, hứa nhăn cuội gạt gẫm đàn bà…

[16] Cái duyên tình của ta tưởng là tròn nhưng bị đứt tang thương.

[17] Sự ra đi và công nghiệp của Từ Hải như bọt nước trên sông, tan biến!

[18] Thêm vào vài ba bản đờn cho vui. Bắt Kiều đờn!

[19] Nhờ tiên làm phép đưa vô bờ.

[20] Thú nhận là Kim giao ước với Kiều.

[21] Rễ con đều nhờ ơn vua.

[22] Xa tít  賒踖: Quá xa. HTC: Xa tít mù | Mù tít mù ti |

[23] Đọc theo bản QN.

[24] Nôm viết chữ trượng bằng trọng 重, theo giọng Nam, quá hay.

[25] Chữ rà 𦚐 sai thành bào 胞

[26] Đây chỉ Giác Duyên. Cô ni, người xưa dịch chữ ni cô.

[27] Nên hiểu từ giao hoan theo nghĩa xưa!

[28] Từ đó đến giờ mãi đi tìm như hi vọng quá ít. Bấy dùng âm phí 费: rất đặc biệt 口費

[29] Khoăn khoái: Luôn tưởng nhớ, từ xưa. Đừng lộn với khoan khoái.

[30] Trọn hiếu với cha mẹ.



.
.

Ý kiến bạn đọc
18/11/201506:07:23
Khách
Rất cám ơn bạn đã đua bài Phú Túy Kiều lên mạng... bạn đã đua tôi về khoảng thời gian gần cuối thập niên 40 của thiên niên kỷ trước. Thuở đó, tôi là cậu bé 5, 6 tuổi, được người cậu bà con xa, một chiến binh của Quân Đội Cao Đài có đồn binh đóng gần (tại ngả ba Hai Châu, phía bắc chợ Trảng Bàng 1.5km) chiều chiều cậu đến uống trà với cha tôi và lên nằm chung vỏng, ru ngủ thằng cháu bằng bài Túy Kiều Phú... Bây giờ khi phải lái xe đường xa, thỉnh thoảng tôi cũng lên giọng.. Nàng Túy Kiều là con viên ngoại, lúc sanh thành.... và tắc tị vào câu 55 của bài phú, có lẻ cậu ngưng đọc vì thằng cháu đã ngủ... Rất cám ơn bạn vì điều tôi mong mỏi lâu nay là muốn đọc tiếp đoạn Phú sau mà không biết hỏi ai.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.