Hôm nay,  

Lam Phương, Người Nhạc Sĩ Của Khăn Tay Và Nước Mắt

15/01/201600:00:00(Xem: 10536)

Nhắc tới Lam Phương, ký ức tôi lại bồi hồi nhớ đến một nụ cười đôn hậu trên khuôn mặt thật dễ mến của người nhạc sĩ lão thành. Tôi đã có duyên gặp ông vài lần. Lần đầu tại nhà riêng ông nhân dịp Câu Lạc Bộ Tình Nghệ sĩ tổ chức một buổi tiệc mừng cho ông. Hình ảnh Lam Phương, người nhạc sĩ lừng lẫy một thời, ngồi bên cạnh cây đàn đã theo mình bao năm qua, khiến tôi xúc động. Ông trìu mến nhìn cây guitar của mình và tâm sự “Bây giờ đôi tay chú không còn chơi đàn được nữa...”. Sau những năm dài chưa hoàn toàn bình phục vì cơn tai biến mạch máu não, chắc cũng có lúc ông nhìn đôi tay, đôi chân mình một cách bất lực, như người thuyền trưởng gắng sức điều khiển con tàu ra khỏi trung tâm cơn bão mà con tàu cứ tiếp tục lao mình vào lốc xoáy.

Giọng ông đang buồn bã bỗng đổi thành tươi vui khi tôi hỏi han đến những tập nhạc của ông để trên bàn. Không có gì hạnh phúc bằng bàn luận về những đứa con tinh thần của mình “Chú có hơn hai trăm ca khúc..”. Ông ngập ngừng diễn tả một cách khó khăn vì đường lưỡi chưa chịu nghe lời mà uốn lượn. Tuy nhiên, lúc nhắc đến các ca khúc, tôi thấy dường như có những vì sao lấp lánh trong mắt ông. Đôi mắt ấy, có từng là chứng nhân của các cuộc chia ly lịch sử? Tôi tự hỏi người nhạc sĩ ấy đã viết bao ca khúc, có ca khúc nào không phải là những tự truyện cực ngắn đời mình? Con ong đã ngừng bay, bỏ chốn cũ thường đi về, lấy mật ngày xưa. Con tằm thôi nhả đường tơ bóng láng, dịu dàng. Tuy nhiên tổ ong đã ngọt ngào đủ mật, rổ tơ đã óng ánh những lọn tơ đầy. Lam Phương đã dừng lại trên luống cày đời mình, những hạt thóc ông gieo xuống đã thành lúa, thành gạo từ lâu. Chúng là một trong những thứ thực phẩm đã nuôi dưỡng, làm đầy cơn đói tinh thần con người.

Những năm trước 1975, người dân miền nam Việt Nam, hầu như ai cũng đã từng nghe và biết tiếng nhạc sĩ Lam Phương. Ông viết nhạc từ rất sớm, năm 15 tuổi đã khởi đầu, nên sự nghiệp âm nhạc ông để lại khá nhiều. Trên 200 tác phẩm đa dạng, đủ thể loại, đủ sắc thái. Dường như ông có cảm hứng với tất cả những gì xảy ra quanh mình. Từ cuộc sống dân dã của thôn quê cho tới binh nghiệp của người lính chiến. Từ phút thăng trầm cơ cực của kiếp nghèo cho đến những giây hoan ca, hạnh phúc của tình yêu đôi lứa. Tiếng khóc của trẻ thơ, lời ru đại dương vỗ về tình mẹ, cho đến giọt nước mắt lấm tấm bịn rịn hay đầm đìa chất ngất thương đau, trong kết thúc một chuyện tình. Tất cả đều được các nốt nhạc mẫn cảm của ông ghi lại. Tuy nhiên theo tôi, so với dân ca, ông viết tình ca nhiều và thành công hơn. Có một ai đó nói, dân tộc Việt nam là một dân tộc lãng mạn. Cứ đọc ca dao, nghe dân ca, hò lơ, hò huế, ru con, chèo cổ hay sáu câu vọng cổ, để hiểu tại sao chúng ta không có anh hùng ca mà chỉ có tình ca. Lam Phương không ngoại lệ khi phần lớn ca khúc của ông là những bản tình ca.

Đất nước chúng ta liên tiếp bị chiến tranh tàn phá, hết ngoại xâm rồi nội chiến, tâm thần con người bị tổn thương đến nỗi cái lãng mạn, vui tươi, hạnh phúc đã tự nhiên biến dạng thành suối nguồn của niềm đau, nỗi buồn. Người dân miền Nam trước 75 lại bị đưa vào một cuộc chiến huynh đệ tương tàn bất đắc dĩ nên khi trải lòng. phơi mở những tâm sự, nội dung lãng đãng những biệt ly, nuối tiếc, nhớ nhung.

Lam Phương cũng vậy. Là người miền Nam, vốn có chút duyên với câu hò, vọng cổ, nên điệu buồn nhạc ông lên men sầu da diết hơn là hơi hướm của các tiết điệu vui tươi, nhộn nhịp. Ông đã chinh phục được một số rất đông người mến mộ. Nhạc ông dễ nghe, dễ hát. Ca từ giản dị, không kiểu cách, dễ hiểu, chân phương, có nhiều khi mộc mạc. Người nghe và hát, cảm được tiếng lòng của họ thổn thức, nhất là khi họ bị rơi vào hoàn cảnh trùng hợp với bài hát, thế là trái tim của họ lập tức bị đốn ngã. Hầu hết các ca từ, chữ dùng, chuyện kể, trong hơn 200 bản nhạc của ông phần lớn đều diễn đạt những cách ngăn, hoài niệm tiếc nuối kỷ niệm xưa của tình yêu đôi lứa, những buổi từ ly, sân ga, bến đò, vẫy biệt, khăn tay và nước mắt. Dường như sự chia cách đã thấm vào máu ông, lập đi lập lại trong tiềm thức như những nốt lặng, dừng lại, trùng điệp, rồi ngân vang, rất xa cho tới cuối cuộc đời, để tất cả chỉ còn là một khoảng trống tận cùng.

blank
Nhạc sĩ Lam Phương (ngồi) và nhà văn Trịnh Thanh Thủy.

Rất nhiều bài hát mang cùng chủ đề tôi không tiện kể ra hết nhưng chúng ta có thể tìm thấy trên mạng như: Duyên Kiếp, Thu sầu, Phút cuối, Nghẹn ngào, Chờ người, v.v…

Nhạc phẩm đầu tay của ông “Chiều thu ấy” đã mang mầm mống của ly tan. Nhưng bài hát chia ly đã làm vang danh ông từ ngày còn trẻ chính là bài “Chuyến đò vĩ tuyến”, vì nó mang một dấu ấn lịch sử của cuộc chia cắt đất nước Việt Nam vào năm 1954. Theo lời Cao Đắc Tuấn thì ": "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" là một bài hát do nhạc sĩ Lam Phương viết vào năm 1955 sau khi hiệp định Geneva chia đôi đất nước năm 1954 tại vĩ tuyến 17 bên sông Bến Hải. Bài hát là lời một cô gái đang mong chờ người yêu trên con đò bên bờ sông để đưa chàng qua vĩ tuyến về miền Nam thanh bình trù phú. Qua lời cô gái, tác giả biểu lộ bản chất nhân bản, hiền hòa, yêu thương đồng bào và đất nước của người miền Nam". Trong Wikipidia thì ghi 1957.

Đêm nay trăng sáng quá anh ơi
Sao ta lìa cách bởi dòng sông bạc hai màu
Lênh đênh trên sóng nước mông mênh
Bao đêm lạnh lẽo em chờ mong gặp bóng chàng
Vượt rừng vượt núi đến đầu làng
Đò em trong đêm thâu sẽ đưa chàng sang vĩ tuyến
Phương Nam ta sống trong thanh bình
Tình ngát hương nồng thắm bên lúa vàng ngào ngạt dâng
……………

Chuyến đò vĩ tuyến-Hoàng Oanh
https://www.youtube.com/watch?v=4Wy83LXcwKM

Hình ảnh người con gái chờ đợi người yêu trên con đò để đưa chàng vượt tuyến trong một đêm trăng sáng là một bức hoạ có sắc sống, lung linh và lãng mạn. Nhưng chàng trai vì một lý do nào đó không bao giờ có cơ hội đến nơi hẹn đã làm vỡ tan giấc mơ sum họp của cô gái, của một mái ấm hạnh phúc trong tự do ở miền Nam cá đầy, gạo trắng.

Dòng sông Bến Hải, cây cầu Hiền Lương, vĩ tuyến 17, là điểm mốc lịch sử cuộc di cư vĩ đại của gần một triệu người dân miền Bắc đã rời quê cha đất tổ vào miền Nam. Bối cảnh lịch sử này là một dĩ vãng không bao giờ quên của những người di cư, bảo sao bài hát không chiếm được cảm tình của nhiều người Bắc thời bấy giờ. Cây đa, bến cũ, con đò, ánh trăng, năm xưa, luôn là biểu tượng gợi nhớ da diết, đưa trí tưởng người ta làm những cuộc viễn du, hành hương về miền đất cũ. Năm 1957, Lam Phương đã sáng tác vài bài hát cùng một chủ đề như thế “Chuyến tàu thống nhất”, “Đoàn người lữ thứ”, “Sầu ly hương,” v.v... Dù ông không là kẻ ly hương nhưng là chứng nhân, có lẽ biến cố này để lại trong hồn ông những xúc cảm chân thành nên các sáng tác thể loại này mới ra đời. Riêng bài “Sầu ly hương” đã dẫn dắt bước chân thời gian trở lại hiên nhà quá khứ của tấm lòng những người du mục tha hương, trong đó có tôi.

Nhạc sầu buông trầm lắng
Xa quê bao ngày tháng
Mang theo nỗi niềm đau xót chia phôi
Hà Nội xa vời lắm
Nơi quê hương chìm đắm
Ai ra đi mà không thương nhớ về
………………
Vì đâu ta điêu linh
Sống trong đêm mong manh
Nhớ nhung ôi đêm thâu buồn tàn canh
………………
Hà Nội đang hờn oán
Non sông đang lầm than
Đi ta nối bao tình Nam Bắc yêu thương
Hà Nội ơi buồn nhớ
Đêm nay ta sầu mơ
Gởi lòng theo ngàn cánh chim xa mờ

Sầu ly hương-Lệ Thu
https://www.youtube.com/watch?v=0VZR9huKlmc

Đây là lần đầu tiên tôi nghe cô Lệ Thu hát bài này của Lam Phương được thu âm trước 1975. Phải nói là cô hát bài này rất hay với một chất giọng nguyên thủy ngày còn trẻ khi chưa bị hư giọng. Bài Sầu Ly Hương có cấu trúc A-B-A vô cùng cân phương và tối giản, vì mỗi đoạn chỉ có hai câu với nhạc tố(motif) tiết tấu nhịp nhàng từ đầu đến cuối bài, là 5-5-8, tạo sự quen thuộc và dễ thuộc, như một bài dân ca vùng Almeria hay Seville nước Tây Ban Nha, nhạc sĩ Lam Phương đã sử dụng rất nhiều chuỗi (sequences) là một đặc điểm của nhạc tây phương luôn có kết cấu hoà âm chặt chẽ với giai điệu. Do đó ca từ và tiến trình giai điệu đã chuyên chở đủ được sự não nề, đau đớn, buồn bã của tâm thức người ly hương, sau chiến tranh.


Nhắc tới Lam Phương người ta liên tưởng ngay đến Túy Hồng và ban kịch Sống của cô. Lam Phương là người viết rất nhiều ca khúc (khoảng 10 ca khúc) cho các vở kịch của Túy Hồng. Tôi còn nhớ ngày tôi còn bé trước năm 75, rất thích coi kịch. Ngoài ban kịch Kim Cương, ban kịch Sống là một trong hai ban kịch lấy rất nhiều nước mắt của khán giả. Tôi ở trong một xóm nghèo, nhà không có TV, mỗi tối sau khi ăn cơm, làm bài tập xong, thường đi coi ké TV nhà hàng xóm. Trước năm 75, TV bên Việt Nam còn dùng trắng đen, kịch Sống thường diễn trên đài truyền hình VN số 9. Túy Hồng và Vân Hùng là nam diễn viên kịch nói đã làm say mê bao nhiêu khán giả trong đó có khán giả tí hon là tôi. Nhạc phẩm "Trăm Nhớ Ngàn Thương" trong một vở kịch của Túy Hồng đã làm thổn thức trái tim nhiều người khi xem kịch.

Mất em rồi, xa em rồi
Hoa đã tàn, nhụy đã phai
Chiều hôm nay trời thanh vắng em đi về, về với ai
Một người đi, một người sầu
Nhìn hoa úa buồn về mau
Đôi chân mòn tìm dư âm hè phố vắng
Lòng còn thương, tình còn nồng
Mà đêm nhớ, ngày chờ mong
Bao thu rồi nhìn lá chết rơi ngoài song
..........................

Trăm nhớ ngàn thương-Khánh Ly
https://www.youtube.com/watch?v=JkIcocZuOfE

Bài này cô Khánh Ly hát rất chân phương, kỹ thuật hoà âm đơn giản nhưng đủ chuyên chở được những ca từ mong nhớ, thương yêu, đậm sâu của nhân vật trong bài hát.

Trong kỹ thuật sáng tác, tôi thấy Lam Phương đã sử dụng nhiều nhạc country của Mỹ như nhạc blues, blues rock, như trong âm hưởng của bài này. Vào giữa thập niên 60, 70 nhạc blues rock (kết hợp giữa blues và rock) và các blues rock club Mỹ xuất hiện rất nhiều. Các nhạc sĩ Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng. Không riêng bài “Trăm nhớ ngàn thương”, nét nhạc này người ta tìm thấy rất nhiều trong dòng nhạc trữ tình được nhiều người nghe và yêu thích vào thập niên nói trên. Sau khi chế độ cộng hoà ở miền Nam sụp đổ tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản đặt tên cho dòng nhạc trữ tình miền Nam là “nhạc vàng” và cấm hát, phổ biến, cũng như lưu hành. Thế mà “nhạc vàng” lại được người dân miền Bắc ưa chuộng vì nó chứa nhiều yếu tố cảm tính mà nhạc miền Bắc rất thiếu. Bây giờ rất nhiều bài hát trong kho “nhạc vàng” được cho phép hát, lưu hành và các ca sĩ rất thích hát.

Trong tiến trình sáng tác của ông, Lam Phương viết nhạc qua thời đại, cho mọi giới, mọi tầng lớp nhưng có lẽ tầng lớp bình dân là mục tiêu được ông chọn để tiếp cận vì đó là đáy của một kim tự tháp trong phương pháp tiếp thị. Phải nói rằng nhạc của ông thoả mãn thị hiếu người nghe và bán rất chạy. Khi ấy, vấn đề thương mại và nghệ thuật được đặt ra và có người chỉ trích nhạc của Lam Phương là nhạc thương mại, nhạc sến.

Đã có nhiều người thắc mắc và cũng có người cố gắng định nghĩa và phân tích từ “sến là gì” và thế nào là “nhạc sến”? Đây là một đề tài gây nhiều tranh cãi. Theo tôi, “sến” là một từ ngữ được áp đặt, được sử dụng rộng rãi nhưng không có nguồn gốc, định nghĩa rõ rệt. Mỗi người hiểu “sến” theo một ý riêng và không có một tiêu chuẩn nhất định nào để phân loại nó. Người ta chỉ nghe người khác phê bình và bắt chước hùa theo để gọi một bài hát là “sến”, rồi tự mình phân loại một dòng nhạc là “sang” hay “sến”.

Có vài định nghĩa cho rằng “Sến” tượng trưng của những gì rẻ tiền, từ ngữ đến từ Mari sến hay con sen. "Sến" còn là một từ ám chỉ sự chê bai và miệt thị những gì thể hiện ở mức, hay dưới mức trung bình hoặc bình dân.

Nét “sến” trong âm nhạc, có người bảo nó xuất phát từ chữ “sentimental” nghĩa là ướt át, đa sầu, đa cảm. Ta có thể gọi yếu tố chính của “sến” là ngọt ngào, mùi mẫn, sướt mướt, dễ thấm, xuyên tim. Chữ "sến" ở đây có nghĩa là khi nghe người ta thấy “phê”, thấy tim bị đốn ngã.

Có người quy cho dòng nhạc hay các bài hát có thể điệu bolero là nhạc “sến”, điều này không đúng. Giai điệu, không làm cho một bài hát trở thành “sến”. Thể điệu bolero đơn điệu và sáo mòn dễ hát nên có một số ca sĩ thích hát bolero bị gán cho từ “sến”. Hoặc ngược lại, những bài hát được họ trình bày đều biến thành “nhạc sến”.

Vì người ta hiểu bình dân là “sến” mà nhạc Lam Phương được giới bình dân ưa chuộng nên hễ nói tới “nhạc sến”, người ta hay nhắc đến tên Lam Phương và đem các bài hát như “Duyên Kiếp”, hay “Thành phố buồn” ra làm ví dụ. Thực ra nhạc Lam Phương không quá bình dân đến nỗi bị quy là rẻ tiền, hoặc dành cho các cô bà gánh nước hay con sen gối đầu giường. Nhạc của ông cũng không quá hàn lâm như kiểu nhạc của Cung Tiến có nhiều ảnh hưởng của nhạc cổ điển Tây Phương. Biên giới giữa nhạc “sến” và “không sến” trong các nhạc phẩm của ông cũng mơ hồ.

Nếu bảo rằng nhạc Lam Phương "sến" vì ca từ của ông lãng mạn, mộc mạc, giản dị, chân phương, tôi càng không đồng ý. Trong những nhạc phẩm trữ tình của ông sáng tác vào thập niên 60, 70 có nhiều ca từ còn hay ho hơn vô số các bài nhạc bây giờ. Nhạc bây giờ trong nước, có bài bắt chước nhạc Hàn quốc chỉ ra vẻ văn minh thôi chứ lời thì rất ngô nghê, sự thể hiện lại rỗng. Xem ra nếu so sánh chúng với dòng nhạc ngày xưa bị cho là "nhạc sến", nó lại có ca từ văn vẻ hơn, mà không thô lỗ, như nhạc thương mại ngày nay.

Do đó khi một bài hát bị người ta cho nó là "sến" phần lớn do người ca sĩ thể hiện nó quá đà khiến nó trở nên quá ủy mị, rên rỉ, nỉ non, mùi mẫn cốt để lấy nước mắt, hay đốn ngã tim người nghe.

Ngày mới lớn, đi đâu, tôi cũng nghe thiên hạ hát “Thành phố buồn”(1970). Ngoài vỉa hè đại lộ, trong ngõ hẻm, đài phát thanh, truyền hình, đâu cũng có tiếng hát bài ấy vang vọng. Không biết cái thành phố buồn ấy nó hoang vắng, lạnh lẽo thế nào mà khi tiết tấu vừa trỗi lên, rót vào tai tôi, nỗi buồn liền đáp xuống, quất sụm cái trí tích cực con người liền. Nhất là khi nghe các nam ca sĩ thường hát nhạc sến, cất giọng nhừa nhựa, ngân nga, con sâu buồn liền ngóc đầu uốn éo, cào nhẹ trái tim người nghe, khiến tứ chi đột nhiên rũ rượi. Phải chăng cái chất giọng, lối thể hiện quá đà của người ca sĩ đã khiến bài hát tự nhiên “sến”. Mà cũng lạ, sau 75 và hiện nay một số ca sĩ xuất thân từ miền Bắc (thường hát nhạc hàn lâm hay “nhạc sang”) hát nhạc Lam Phương theo phong cách mới ai cũng công nhận là họ hát nhạc Lam Phương không thấy “sến” mà lại rất hay. Điều này khiến ta thấy rõ hơn sự thể hiện một bài hát của người ca sĩ rất quan trọng, nó có thể đưa bài hát của một nhạc sĩ vang danh hay biến nó thành “sến” chỉ trong mấy phút phù du.

Có một nghịch lý là, không phải một ca sĩ hay hát nhạc sến mà bài hát biến thành sến. Một bài hát trở nên sến, không do dòng nhạc đó sến mà khi người ca sĩ trình diễn một bài hát bị hư. Có bài hát được cho là sến, 1 người ca sĩ muốn hát cho nó khỏi sến, liền cố gắng đổi phong cách, khi hát cố thoát ra khỏi cái rên rỉ, ngọt, mùi, nhưng vì chú ý quá nhiều đến kỹ thuật, nên thiếu chiều sâu, cảm xúc, lại cố gồng lên, màu mè, luyến láy một cách máy móc, sáo mòn, khiến bài hát biến thành vô hồn thì tôi lại cho rằng người ca sĩ đó hát rất "sến".

Nói tóm lại, âm nhạc chuyên chở cảm xúc, người nhạc sĩ là người làm nên những chiếc thuyền với những kỹ thuật kết nối, diễn đạt, ràng buộc, ôm ấp cảm xúc. Người ca sĩ là người lái đò đưa chiếc thuyền cảm xúc về bến đậu. Chiếc thuyền có về bến an toàn hay lạc lối đều do tài điều khiển con thuyền nếu bị sa vào cơn bão táp.

Rev. Hugh Reginald Haweis có nói “Cảm tính, chứ không phải lý tính, đã làm cho âm nhạc thăng hoa”. Dòng nhạc Lam Phương với bao nhiêu là cảm xúc tràn bờ đã tạo cho ông một nét riêng trong những con thuyền ông thả xuống dòng sông âm nhạc Việt Nam. Cảm ơn ông đã vì âm nhạc mà tạo nên những con thuyền trôi lờ lững làm đẹp và giàu có thêm cho kho tàng âm nhạc Việt Nam.

(Trích Việt Tide-Thế Giới Nghệ Sĩ số 44)

Trịnh Thanh Thủy

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuối năm là lúc con người nhìn lại về giá trị cuộc sống. Một bài viết trên trang mạng The Conversation nêu vấn đề về những vực thẳm chính trị, các cuộc chiến tranh, áp bức… và con người vì thế cảm thấy vô vọng và bất lực khi chứng kiến những thế lực đen tối diễn ra khắp nơi trên thế giới. Liệu chúng ta có thể làm được điều gì đem lại thay đổi trước những bi hoại này hay không?
Danh hiệu “Nhân Vật Của Năm” do TIME bắt đầu từ năm 1927 – theo truyền thống được trao cho những người có ảnh hưởng đáng kể trong các sự kiện toàn cầu, từ chính trị đến văn hóa, môi trường, nghệ thuật. Những người được chọn đóng vai trò như một “thước đo phong vũ” về sức lan tỏa trong xã hội đương đại. Ảnh hưởng đó, theo tiêu chuẩn do chính TIME đề ra, có thể là “for better or for worse – làm cho thế giới tốt đẹp hơn hoặc tệ hại hơn.”
Tiễn 2024, thế giới sẽ chào đón một năm mới 2025 mang theo cả bóng tối lẫn ánh sáng. Các cuộc xung đột, sự phân cực chính trị và những rủi ro khôn lường là lời nhắc nhở về sự bất ổn của thời đại. Nhưng đồng thời, khả năng phục hồi kinh tế, sự phát triển công nghệ, tinh thần hợp tác quốc tế, hơi thở và sự sống còn bất khuất của từng người mẹ, từng đứa trẻ vực dậy và vươn lên từ những đống gạch vụn đổ nát ở Ukraine, ở Gaza, ở Syria… cũng là cảm hứng và hy vọng cho tương lai nhân loại. Nhà văn Albert Camus đã viết: “Giữa mùa đông lạnh giá nhất, tôi tìm thấy, trong mình, một mùa hè bất khả chiến bại.”* Thế giới năm 2025, với tất cả những hỗn loạn, vẫn mang đến cơ hội để con người vượt qua và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, tử tế hơn. Đó cũng là lời chúc chân thành cuối năm của toàn ban biên tập Việt Báo gửi đến quý độc giả: một năm 2025 tràn trề cơ hội và hy vọng.
Trong ba năm học gần đây, PEN America đã ghi nhận hàng loạt trường hợp cấm sách xảy ra trên toàn nước Mỹ, đặc biệt trong các trường công lập. Những nỗ lực xóa bỏ một số câu chuyện và bản sắc khỏi thư viện trường học không chỉ gia tăng mà còn trở thành dấu hiệu của một sự chuyển đổi lớn hơn, đặt ra câu hỏi nghiêm trọng về tương lai của giáo dục công lập. Việc kiểm duyệt này phản ánh một xu hướng đáng lo ngại: sự tập trung vào việc kiểm soát nội dung văn hóa và giáo dục, thay vì khuyến khích học sinh tiếp cận kiến thức đa chiều.
Syria đang sống trong một bước ngoặt lịch sử sau khi chế độ độc tài sụp đổ nhanh chóng và Bashar al-Assad trốn sang Nga để tị nạn. Các nhóm nổi dậy chiến thắng đang cố gắng duy trì trật tự công cộng và thảo luận về các kịch bản cho tương lai. Lòng dân hân hoan về một khởi đầu mới đầy hứa hẹn pha trộn với những lo âu vì tương lai đất nước còn đầy bất trắc. Trong 54 năm qua, chế độ Assad đã cai trị đất nước như một tài sản riêng của gia đình và bảo vệ cho chế độ trường tồn là khẩu hiệu chung của giới thân cận.
Các số liệu gần đây cho thấy những thách thức mà nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối mặt để phục hồi kinh tế cho năm 2025, khi quan hệ thương mại với thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc có thể xấu đi cùng lúc mức tiêu thụ trong nước vẫn sụt giảm. Và thật sự thì nền kinh tế Trung Quốc tệ đến mức nào? Việc đặt câu hỏi này ngày càng trở nên hợp lý khi Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng sản xuất trì trễ và tiền tệ mất giá kéo dài trong những năm gần đây. Đặc biệt, chính quyền Bắc Kinh dường như không muốn công khai toàn bộ thực trạng.
Chiều ngày Thứ Ba 17/12, tòa án New York kết án Luigi Mangione 11 tội danh, bao gồm tội giết người cấp độ 1, hai tội giết người cấp độ 2 cùng các tội danh khác về vũ khí và làm giả danh tính. Theo bản cáo trạng, một bồi thẩm đoàn ở Manhattan đã truy tố Mangione về tội giết người cấp độ hai là tội khủng bố. Tòa đã kết tội hành động của Luigi Mangione – một hành động nổi loạn khó có thể bào chữa dù đó là tiếng kêu cuối cùng của tuyệt vọng.
Ngay từ thời điểm này, cho dù chưa chính thức bước vào Tòa Bạch Ốc, tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa hẹn một chiến dịch bài trừ di dân lớn nhất lịch sử Mỹ. Những cuộc kiểm soát, bắt bớ, trục xuất di dân dự kiến sẽ diễn ra với qui mô lớn trong vài năm tới. Nhiều sắc dân nhập cư ở Mỹ sẽ phải lo lắng, nhưng cộng đồng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sẽ là cộng đồng di dân gốc Mỹ Latin. Lời hứa này đang làm hài lòng những người Mỹ xem dân nhập cư là kẻ cướp đi việc làm và quyền lợi của mình. Rất đông trong số này thuộc các cộng đồng di dân, trong đó có cộng đồng gốc Việt. Tuy nhiên, có bao nhiêu người thấy được toàn cảnh ảnh hưởng của những chính sách bài trừ di dân đến nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ?
Trong tài liệu của Thư Viện Quốc Hội ghi rằng, nguồn gốc của quyền ân xá trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đến từ lịch sử Anh quốc. Quyền ân xá xuất hiện lần đầu tiên dưới thời trị vì của Vua Ine xứ Wessex vào thế kỷ thứ bảy. Mặc dù tình trạng lạm dụng quyền ân xá ngày càng tăng theo thời gian, dẫn đến những hạn chế sau đó, nhưng quyền ân xá vẫn tồn tại trong suốt thời kỳ thuộc địa của Mỹ.
Tôi cộng tác với tuần báo Trẻ (tờ báo có nhiều ấn bản nhất tại Hoa Kỳ) gần hai chục năm qua. Sự gắn bó lâu dài này không chỉ vì tấm lòng yêu nghề (và thái độ thân thiện cởi mở) của ban biên tập mà còn vì chút tình riêng. Mỗi tuần Trẻ đều dành hẳn một trang báo, để trân trọng giới thiệu đến độc giả hai ba vị thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa) đang sống trong cảnh rất ngặt nghèo ở quê nhà. Nhìn hình ảnh đồng đội của mình đang ngồi trên xe lăn, hay nằm thoi thóp trong một gian nhà tồi tàn nào đó – lắm lúc – tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Liệu có còn ai nhớ đến những kẻ đã từng vì đời mà đi không vậy?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.