Hôm nay,  

Người Đi Hắt Bóng Trong Tâm Cảnh - Vài Suy Nghĩ Nhân Đọc Tập Thơ “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” Của Nhà Thơ Nguyễn Lương Vỵ

25/08/201909:54:00(Xem: 9636)
Nha tho Nguyen Luong Vy
Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ trong buổi gặp gỡ bằng hữu ra mắt tập thơ “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian.” (Ảnh Tô Đăng Khoa)



“People find out who they are by writing.”

Grace Cavalieri

 

Tôi đến thăm nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ, người vừa ra mắt tập thơ thứ 13, “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian,” hôm 24 tháng 8 năm 2019, tại một quán cà phê trong vùng Little Saigon.

Trông anh gầy đi sau nhiều lần giải phẫu tim và phải nằm tại viện điều dưỡng để được chăm sóc sức khỏe chu đáo hơn. Nhưng nụ cười trên môi anh vẫn không hề suy suyển dù đôi mắt ngày càng ẩn kín sâu hơn trong cặp kính dày cộm.

Cầm tập thơ mới tinh còn nóng hổi mà anh tặng, đang nhìn chầm chập vào hình bìa có ngụm máu đỏ tươi phun vọt ra, tôi chưa kịp cảm ơn thì người bạn trẻ Tô Đăng Khoa đứng cạnh bên đã lên tiếng:

-  Máu của Huệ Khả đó!

Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ tiếp lời:

-  Giọt máu ngộ đạo của Huệ Khả.

Tôi phụ họa theo:

-  Nhờ máu từ cánh tay mới chặt đó mà Tổ Huệ Khả đã “tìm không thấy tâm ở đâu.”

Huệ Khả là tổ thứ hai nối nghiệp Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma. Truyền thuyết cho rằng khi Thần Quang (thế danh của Tổ Huệ Khả) đến Động Thiếu Thất cầu đạo, nhưng Tổ Đạt Ma cứ ngồi diện bích hoài mà không đoái hoài gì tới. Bấy giờ Thần Quang mới lấy thanh gươm chặt đứt một cánh tay và quăng trước mặt Bồ Đề Đạt Ma. Lúc đó Tổ Đạt Ma mới quay lại và hỏi Thần Quang đến đó cầu gì. Thần Quang nói đến để cầu pháp an tâm. Tổ Đạt Ma kêu Thần Quang đưa tâm cho ngài an. Thần Quang nói tìm tâm không thấy. Đạt Ma nói ta đã an tâm cho ngươi rồi, đặt Pháp Hiệu Huệ Khả, và truyền Kinh Lăng Già đề kế nghiệp Tổ Sư Thiền tại Đông Độ [tức Trung Hoa].

Hai câu nói của anh Nguyễn Lương Vỵ và Tô Đăng Khoa làm cho tôi ngộ ra một điều rất thực rằng là thơ của Nguyễn Lương Vỵ chính là máu huyết của anh tuôn ra thành lời.


Am Tuyet Do
Buổi chiều cuối hạ hôm đó, ngồi một mình ở quán cà phê vắng đọc “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” tôi mới thấy điều mình vừa ngộ ra quả thật không sai.

“Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” là bước lịch nghiệm tận cùng ý nghĩa sâu thẳm nhất về cuộc đời của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ.

 

Khuya tháng tư thinh lặng uy nghi

cuối đời ta chẳng tiếc điều gì

phím gõ lăng nhăng như giẻ rách

thân già lãng đãng tợ âm ti

người đi hắt bóng trong tâm cảnh

kẻ ở in hình giữa loạn ly

lệ khô đêm tận ngồi như núi

một đống chiêm bao đến rủ đi…

 

Tôi giật mình khi đọc đoạn thơ thứ 3 này của bài thơ Không Đề Tháng Tư trong Âm Tuyết Đỏ Thời Gian! Sau giật mình là cảm giác “thích thú” khi bắt gặp một bài thơ có nội hàm Phật Pháp cao thâm như thế. Phải cả đời hít thở và sống với không khí của Phật Pháp thì mới có thể “ngộ” được những sự thật vi diệu như vậy.

Quả thật không sai. Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ trong bài thơ này đã cho chúng ta thấy rằng ông ngồi thiền cả đêm, “đêm tận ngồi như núi.” Ngồi như núi là thế ngồi thiền vững chãi trong pháp tu thiền xưa nay, đặc biệt Phái Thiền Tào Động. Khi ngồi vững chãi như núi thì thân mới an và tâm mới tịnh.

Nhờ thiền quán, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ đã ngộ ra rằng “người đi hắt bóng trong tâm cảnh,” tức là sự hiện hữu của con người chỉ là cái bóng hay cái cảnh của tâm. Điều này giống như trong Duy Thức của nhà Phật nói rằng tất cả các pháp, gồm con người, chỉ là cái ảnh của thức biến, cũng có nghĩa là không có tự ngã, không có thật. Cho nên, ở tuổi 65 -- lúc ông làm bài thơ này, tháng 4 năm 2017, ông sinh năm Nhâm Thìn, 1952 – nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ có thể buông xả mọi thứ “chẳng tiếc điều gì,” và ngay cả những gì ông sáng tác trong đó chủ yếu là thơ cũng chỉ là “lăng nhăng như giẻ rách.”

“Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” cũng là tựa đề của bản trường ca gồm khoảng 360 câu. Bản trường ca “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” là những lời độc thoại sâu sắc, đầy cảm thán nhưng không tuyệt vọng về cuộc đời. Đó là những bước đi lịch nghiệm cuộc đời của nhà thơ, từ lúc còn thơ ấu đến khi về già. Bàng bạc trong bài trường ca là những trầm tư về ý nghĩa cuộc đời, những trải nghiệm của cuộc sống, và tình mẹ “như đất trời bất tuyệt.”

Nhà thơ họ Nguyễn chiêm nghiệm cuộc đời có rất nhiều đau khổ, giống như đức Phật đã dạy về sự thật thứ nhất [khổ đế] trong bốn sự thật (Tứ Diệu Đế) rằng cuộc đời là khổ. Cuộc đời vốn đã khổ mà còn khổ hơn khi ở vào “thời mạt pháp.” Theo nhà Phật, “thời mạt pháp” là thời kỳ sau Phật ra đời khoảng một ngàn năm, phước đức con người suy vi, nhân tâm điên đảo, pháp nhược ma cường [pháp chân chánh thì suy yếu mà pháp tà ngụy thì mạnh]. Cho nên mới có cảnh “chân dung người chân dung ma sóng đôi,” hoặc là “chật ních chỗ ngồi ma về đông đủ, phủi chân vỗ tay và hát rân trời.”

 

kiếp người đó ư?!giữa thời mạt pháp

rất nhiều khi sầu ngất những hiên đời

hiên xám máu xô ngang triều gió giật

chân dung người chân dung ma sóng đôi

kiếp người đó ư?! đành thôi thế thôi

trùng vây oan khiên ta nuốt hết rồi

chật ních chỗ ngồi ma về đông đủ

phủi chân vỗ tay và hát rân trời

 

Ma loạn lên như thế thì làm sao cuộc đời yên ổn được! May mà nhà thơ đã học được pháp Phật có đủ bản lãnh để “trùng vây oan khiên ta nuốt hết rồi.”

Cảm nhận thân phận mình, có lúc nhà thơ đã thốt lên những lời cảm thán làm động lòng người, tưởng chừng như lời bộc bạch của kẻ sắp lên đường đi xa:

 

ta đã gửi suốt một đời lầm lũi

đời mồ côi thương hạt bụi điêu linh

bụi ca hát cùng ta mơ chin suối

mộng mười sông đông đủ gió thâm tình!!!

 

khuya nứt nở hồn sơ sinh rướm huyết

tuyết băng ơi và ngấn lệ kia ơi

lời tri ngộ cũng là lời vĩnh quyết

mở lòng tay nghe tỉếng nấc xa xôi

 

nghe thời khắc nhắn người đi kẻ ở

lá đầu cây rung máu lá trong cây

ta vẫn đợi người về trong hơi thở

tự nhủ thầm: Âm-tuyết-đỏ-trong-tay!!!...

 

Mấy chữ “âm tuyết đỏ trong tay” làm người đọc không khỏi liên tưởng đến một ngụm máu đỏ vừa phun ra trong lòng bàn tay. Đó phải chăng là lời tự tình phụt  ra từ máu huyết xương tủy trinh nguyên như băng tuyết! Có lẽ lúc đó nhà thơ đang trải qua thời khắc bi cảm nhất của một “hạt bụi điêu linh.”

Đứng trước giây phút sanh tử biệt ly của kiếp ngưởi khổ nhiều hơn vui, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ vẫn không bi quan quay mặt với cuộc đời, vẫn không chạy trốn khỏi trần gian:

 

chào ta nhé một kiếp người lầm lũi

ấy tuy nhiên xin kiếp nữa làm người

người với ngợm với ma ngồi đắm đuối

niệm vô thường niệm mãi vẫn khôn nguôi

 

chào ta nhé khẽ thôi rồi bặt tiếng

ấy tuy nhiên mộng huyễn đã vang lừng

âm đã vút trên tầng không én liệng

lá đầu cây sông cuối bến sương rung

 

chào ta nhé điệp trùng ta kẻ lạ

ấy tuy nhiên ta đã gặp ta rồi

thì cũng chẳng đặng đừng chi nữa cả

lá hừng đông sông chuyển dạ thế thôi

 

Thì ra là vậy. Thảo nào nhà thơ họ Nguyễn chẳng sợ kiếp người lầm lũi và điêu linh này! Ông đã tóm được bửu bối để đối trị với cuộc đời khổ đau, hay nói theo từ ngữ kiếm hiệp Kim Dung, là ông đã luyện xong bí kíp độc môn võ lâm của nhà Phật. Mỗi niệm đều quán các pháp vô thường. Đã vô thường thì sinh diệt không ngừng nghỉ. Đã sinh diệt liên tục thì không tồn tại ở một vị thế nào vĩnh viễn, không cố định. Điều đó cho thấy các pháp vốn không có tự ngã, không có tự thể. Chúng là không. Chúng chỉ là sương rụng khi cây rung. Chúng chỉ là mộng huyễn. Thế thì tại sao phải sợ mà lẫn tránh cuộc đời!

Ngộ được điều đó, cũng có nghĩa là “đã gặp lại ta rồi.” Ta ở đây là “bản lai diện mục” [mặt mũi đích thực của mình xưa nay], như nhà Thiền đã nói.

Tập thơ “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” ngoài phần chính là thơ của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ, còn có phần phụ lục các bài viết về Nguyễn Lương Vỵ của Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Thị Khánh Minh, Tô Đăng Khoa, và Lê Lạc Giao.

Tập thơ “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” dày 190 trang, bìa màu, giấy hẩm rất đẹp, do Nhà Xuất Bản Văn Học ấn hành tháng 8 năm 2019.

Độc giả có thể liên lạc với NXB Văn Học qua địa chỉ, điện thoại và email:

Văn Học Press

22 Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978

email: [email protected]  • Facebook: Van Hoc Press

Tập thơ Âm Tuyết Đỏ Thời Gian đề giá USD 15.00. Đặc biệt, thi tập đang để bán toàn cầu trên Barns & Noble, với Search Keywords: am tuyet do thoi gian. Hoặc bấm vào đường dẫn đã rút ngắn sau: https://pgvn.org/d_y6qsg5

Cảm ơn nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?
Ngày 30/4 năm thứ 46 sau 1975 đặt ra câu hỏi: Còn bao nhiêu năm nữa thì người Việt Nam ở hai đầu chiến tuyến trong chiến tranh mới “hòa giải, hòa hợp” được với nhau để thành “Một Người Việt Nam”? Hỏi chơi vậy thôi chứ cứ như tình hình bây giờ thì còn mút mùa lệ thủy. Nhưng tại sao?
30 tháng Tư. Đó là ngày nhắc nhở chúng ta cần có dự tính cho tương lai. Vào năm 1975, ai có thể ngờ rằng sẽ có gần 2 triệu người Việt tại Hoa Kỳ nuôi dưỡng cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp một cách đáng kể cho xã hội? Ai ngờ được rằng hiện đã có thế hệ người Mỹ gốc Việt thứ ba, thứ tư?
Tổng thống Joe Biden như một người thuyền trưởng, nắm con thuyền quốc gia giữa cơn bão dữ. Chỉ trong cơn sóng lớn mới thấy được khả năng người lèo lái. Những thách thức vẫn còn trước mặt, nhưng con thuyền quốc gia hứa hẹn sẽ đến được chân trời rộng mở. Sự lãnh đạo và phục vụ thầm lặng, bền đỗ cho quốc gia và người dân của tổng thống Joe Biden đã được chứng minh bằng kết quả hiển hiện trong 100 ngày vừa qua.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.