Hôm nay,  

Sau Ngày 30-4-1975

20/04/202019:21:00(Xem: 4611)

 

Sau ngày 30-4-1975 Bắc Việt Nam (NVN) chủ trương tiêu diệt triệt để tiềm lực NVN về nhân lực, về kinh tế và về văn hóa nhằm củng cố việc cưỡng chiếm Nam Việt Nam (NVN) và chận đứng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) có thể hồi sinh ở NVN.


1.-   TIÊU DIỆT NHÂN LỰC VNCH 


Trước khi tấn công Sài Gòn, Ban Bí thư Trung ương đảng Lao Động (đảng CS) từ Hà Nội đưa ra chỉ thị số 218/CT-TW ngày 18-4-1975, quy định chính sách đối với công chức và sĩ quan VNCH bị bắt như sau:  “Đối với sĩ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ quản lý, giáo dục và lao động; sau nầy tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại và sẽ có chính sách giải quyết cụ thể.  Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể cả lính và sĩ quan] mà ta cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải cảnh giác và phải quản lý chặt chẽ, sau nầy tùy theo yêu cầu của ta và tùy theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành ngoài quân đội.  Đối với những phần tử ác ôn, tình báo, an ninh quân đội, sĩ quan tâm lý, bình định chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân đội, thì bất kể là lính, hạ sĩ quan hay sĩ quan, đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và quản lý chặt chẽ.”  (Huy Đức, Bên thắng cuộc, I: Giải phóng, Los Angeles: Osin Book, 2012, tr. 39.)  


Sau ngày 30-4-1975, nhà cầm quyền CS kêu gọi sĩ quan VNCH từ cấp thiếu úy trở lên, công chức cao cấp, và cán bộ chuyên viên VNCH ở các thành phố và các tỉnh thành từ Quảng Trị vào đến Cà Mau, trình diện và chuẩn bị lương thực, để học tập chính sách của “chính phủ cách mạng” trong ba ngày, hay một tuần hay một tháng tùy cấp bậc và tùy địa phương.  Khi đại đa số sĩ quan, công chức VNCH trình diện (còn có một thiểu số người bỏ trốn), thì tất cả bị đưa đi giam giữ trong các trại tù gọi là trại học tập cải tạo trên các vùng rừng thiêng nước độc, không tuyên án và không thời hạn. 


Theo bộ Encyclopedia of the Vietnam War, sau biến cố năm 1975, số lượng sĩ quan, công chức và cán bộ VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người trên tổng dân số NVN lúc đó khoảng 20 triệu người.  Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó, khoảng 500,000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200,000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60,000 người bị giữ lại.(Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political,  Social, and Military History, Vol. two, Santa Barbara, California: 1998, tr. 602.)  Một tác giả trong nước cho biết rằng: “Ở Sài Gòn, 443,360 người ra trình diện, trong đó có hai mươi tám viên tướng, 362 đại tá, 1,806 trung tá, 3,978 thiếu tá, 39,304 sĩ quan cấp úy, 35,564 cảnh sát, 1,932 nhân viên tình báo các loại, 1,469 viên chức cao cấp trong chính quyền, 9,306 người trong các đảng phái được cách mạng coi là “phản động”.  Chỉ 4,162 người phải truy bắt trong đó có một viên tướng và 281 sĩ quan cấp tá.”  (Huy Đức, sđd. tr. 37.)


Trong số trên 1,000,000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù "cải tạo". (Anh Do & Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever with Saigon's fall”, nhật báo Orange County Register, Chủ Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về ngày 30-4, tt. 2-3.)  


2.-   TIÊU DIỆT KINH TẾ VNCH


Song song với việc tiêu diệt nhân lực VNCH, CS tiêu diệt luôn tiềm lực kinh tế VNCH, để VNCH không thể hồi sinh.  Đầu tiên, CS chiếm ngay số vàng của VNCH ở trong và ngoài nước. Ở trong nước, sau ngày 30-4-1975, từ đầu tháng 5-1975, CS kiểm kê 16 tấn vàng trong Ngân hàng Quốc gia ở Sài Gòn. (Google: Huỳnh Bửu Sơn “16 tấn vàng của Việt Nam Cộng Hòa”.) Lúc đó, CS tung tin thất thiệt rằng tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã đem số vàng nầy ra nước ngoài.  Ở ngoài nước, trước ngày 30-4-1975, VNCH ký gởi 5,7 tấn vàng tại ngân hàng Bank fur Internationnalen Zahlung SausgleihThụy Sĩ.   Số vàng được đưa qua Tiệp Khắc (lúc đó còn CS), và CSVN nhờ Tiệp Khắc bán để lấy ngoại tệ. (Wikipedia.)


Về mặt xã hội, CS áp dụng kế hoạch kinh tế mới, nói là để phân phối lại dân số sau chiến tranh, nhưng thực tế là nhắm mục đích phân tán dân thành phố, buộc dân những thành phố lớn, như Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ đi về nông thôn, để cướp nhà cửa và tài sản của họ ở thành phố.  Những gia đình có thân nhân bị bắt đi học tập cải tạo phải đi kinh tế mới, thì được hứa hẹn thân nhân sẽ được sớm trở về đoàn tụ gia đình. Những quân nhân, công chức, cán bộ chế độ VNCH nếu được thả ra từ các trại tù cải tạo, đều không được về ở các thành phố đã sinh sống trước đây, mà phải đi kinh tế mới.  Những gia đình tư sản bị kiểm kê, dù là tư sản mại bản hay tư sản dân tộc, đều phải đi kinh tế mới. Mục đích của CS là trả thù, trù dập, cướp của, cướp nhà.    


Khi đến vùng kinh tế mới, mỗi gia đình (CS gọi là hộ khẩu) được cấp 500m2 đất để sản xuất riêng.  Ngoài ra, những người trong độ tuổi lao động, không đau ốm phải tham gia sản xuất trong hợp tác xã, làm công tính điểm và được trả lương theo số điểm.  (Lâm Văn Bé, “Những biến động dân số Việt Nam”, tạp chí Truyền Thông, số 37-38, Montréal: 2010, tt. 132-133.)


Theo tài liệu trong nước: “Chỉ trong vòng vài năm, chúng ta [nhà cầm quyền CS] đã đưa được 1,300,000 người từ các nơi trong cả nước đến các vùng kinh tế mới và đã khai hoang, phục hóa được ngót một triệu hecta đất.  Ủy ban nhân dân thành phố Sài Gòn vạch kế hoạch đưa trên trên một triệu đồng bào không trực tiếp lao động sản xuất đi xây dựng vùng kinh tế mới.  Hơn một năm sau, đến tháng 6-1976, Sài Gòn đã tổ chức cho gần 30 vạn dân đi các vùng kinh tế mới, lập thành 94 xã, trong đó 82 xã ổn định về đất canh tác và thổ cư.” (Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 2001, tr. 282.)  Một thống kê khác cho thấy từ năm 1976 đến năm 2000 (25 năm), có 5 triệu người bị cưỡng bách di dân đi vùng kinh tế mới. (Lâm Văn Bé, bđd. tr. 134.) 


Tuy nhiên, sau một thời gian ở vùng kinh tế mới, nhiều người kiếm cách trở về thành phố.  Kế hoạch kinh tế mới không thành công, ngoài việc nhà nước CS cướp nhà cửa, tài sản các nạn nhân.


Ngày 10-9-1975, CS mở chiến dịch đánh “tư sản mại bản” (comprador) đợt 1. Theo CS, tư sản mại bản là những nhà đại tư bản trước năm 1975, chuyên xuất nhập cảng hoặc làm ăn buôn bán với người ngoại quốc, mà CS tố cáo giới nầy đã dựa vào thế lực nước ngoài để bóc lột dân chúng.  


Ngày 22-9-1975, CS ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền VNCH đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới của nhà cầm quyền CS.  (Viện Kinh tế - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 45 năm kinh tế Việt Nam (1945-1990), Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xã Hội, 1990, tr. 237.)  Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới.  Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.   


Đây là một biện pháp nhằm cướp đoạt tài sản và làm nghèo dân chúng NVN. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu,/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.”  [Cộng sản đổi tiền lần thứ hai ngày 3-5-1978 và đổi tiền lần thứ ba ngày 14-9-1985. (Viện Kinh tế, sđd. tt. 237, 240.)]   


Nhà nước CS mở chiến dịch đánh tư sản mại bản đợt 2 bắt đầu ngày 4-12-1975, nhắm vào những nhà tư sản nhỏ hơn, nhưng vẫn còn giàu có.  Vào đầu năm 1978, CS mở chiến dịch đánh “tư sản dân tộc” do Đỗ Mười cầm đầu, gọi là “công tư hợp doanh”. Tư nhân phải đem cơ sở sản xuất hay kinh doanh riêng của tư nhân, vào hợp doanh với nhà nước.  Tất cả doanh gia đều phải vào công tư hợp doanh (CTHD) mới được kinh doanh.  


Nói là “công tư hợp doanh”, nhưng nhà nước không bỏ vốn, chỉ đứng ra quản lý, điều hành.  Người chủ cũ (tư nhân) sẽ là một thành viên và lãnh lương theo quy định chức vụ hay cấp bậc.  Nếu bị cất chức, chủ cũ xem như mất trắng tài sản của mình. Dân chúng mỉa mai gọi CTHD là “Của Tôi Họ Dành”.

Ở nông thôn thì CS thực hiện nền kinh tế chỉ huy nhanh chóng hơn, chủ trương “ruộng đất thuộc quyền sở hữu của toàn dân, nhưng do nhà nước quản lý.”  Tất cả ruộng đất tư nhân đều bị quốc hữu hóa và nông dân, điền chủ đều phải vào hợp tác xã nông nghiệp hoàn toàn do cán bộ CS điều hành.


3.-  TIÊU DIỆT VĂN HÓA MIỀN NAM 


Chủ trương nhuộm đỏ toàn dân NVN, CS buộc toàn dân học tập chủ nghĩa CS.  Cộng sản xóa bỏ nền văn hóa, giáo dục VNCH, bãi bỏ nền giáo dục nhân bản, dân tộc và khai phóng ở miền Nam, thay bằng nền giáo dục phục vụ chế độ và đảng CS, nhằm đào tạo những con người hồng hơn chuyên, mang tính đảng nhiều hơn chuyên môn, biết vâng lời đảng CS hơn là biết suy nghĩ.  Học sinh phải học thuộc lòng “Năm điều” do Hồ Chí Minh đề ra là: “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt, lao động tốt. Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt. Giữ gìn vệ sinh thật tốt. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.”  Không có điều nào dạy trẻ em có hiếu với cha me, thương yêu anh chị em, lễ độ, nhân ái và tín nghĩa với mọi người, tức không dạy đức dục cho trẻ em, vì CS chủ trương vô gia đình, vô tổ quốc.  Vào năm cuối trung học, học sinh phải học và thi tốt nghiệp môn chủ nghĩa CS, lý thuyết Mác-Lê, lịch sử đảng CS Việt và CS thế giới. Sau khi tốt nghiệp, môn học nầy chẳng ứng dụng được gì vào đời, nên học sinh không thích học, thầy giáo không thích dạy.


Dưới chế độ CS, không có tự do ngôn luận. Cộng sản kiểm soát toàn bộ các sinh hoạt văn hóa, điều khiển chặt chẽ ngành truyền thông,  Báo chí đều do cơ quan đảng xuất bản. Cộng sản đốt hết sách báo NVN mà CS cho là đồi trụy, kiểm duyệt kỹ càng các tác phẩm nghiên cứu, văn chương, ca nhạc… 


Về tôn giáo, CS chủ trương vô tôn giáo, và CS muốn tiêu diệt các tôn giáo nhưng không nổi, nên CS tìm cách kiểm soát, ngăn chận các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động các tu sĩ, và lập ra các giáo hội quốc doanh do CS điều khiển, gây chia rẽ trong nội bộ các tôn giáo. Cộng sản  không thể lập giáo hội Công giáo quốc doanh, cũng không ngăn chận được hoạt động các giáo sĩ, nên CS bí mật tìm cách phá hoại, khủng bố, và mua chuộc một số giáo sĩ. Với các hệ phái Tin Lành, các hội thánh riêng lẻ, độc lập, tự trị, hoạt động nhiều ở miền núi và cao nguyên vắng vẻ, nên CS theo dõi, hạn chế, uy hiếp hay bắt giam các giáo sĩ.


KẾT LUẬN


Đảng CS cưỡng chiếm được NVN, nhưng CS không chinh phục được lòng dân.  Chủ trương tiêu diệt tiềm lực VNCH sau ngày 30-4-1975 nói chung là thất bại.  Đúng như câu đồng dao dân chúng truyền tụng “Cộng Hòa chôn mà chưa chết”.  Ngoại trừ việc CS chận đứng các lực lượng đối kháng, giữ vững chế độ CS, còn lại CS đều thay đổi theo VNCH.  Đảng CS chỉ còn giữ cơ cấu độc tài đảng trị để duy trì quyền lực. Cũng đúng như dân chúng nói “Cộng sản chết mà chưa chôn”.    


Trong khi đó, các trại tù cải tạo của CS không cải tạo được ai, mà chỉ gây thêm hận thù.  Ra khỏi tù, ai cũng tìm cách vượt biên hoặc theo các chương trình ODP hay HO ra nước ngoài.  Ra khỏi nước, người Việt tập hop thành những cộng đồng chống cộng. Ở trong nước, dầu bị CS kềm kẹp khắc nghiệt, vẫn xuất hiện nhiều nhà tranh đấu, đòi tự do dân chủ, chống CSVN, và chống mưu đồ xâm lăng của Tàu cộng.  


Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 19-9-2018 ở Hòa Bình, tù nhân lương tâm Đào Quang Thực tuyên bố lời cuối cùng sau khi bị kết án 14 năm tù giam, 5 năm quản chế: “Tôi đấu tranh cho tự do dân chủ và quyền con người cho đất nước tôi.  Tôi đấu tranh cho đất nước tôi được sống trong môi trường trong lành. Tôi không ân hận.”   (http//www.facebook.com/VOATiengViet) (Đài phát thanh VOA ngày 19-9-2018). 


Về kinh tế, chính sách kinh tế chỉ huy của CS không kích thích nổi sự phát triển kinh tế, nên đất nước suy sụp.  Lo sợ dân chúng nổi dậy, năm 1986, CS bắt đầu “đổi mới” kinh tế, bãi bỏ kinh tế chỉ huy, trở lại nền kinh tế thị trường, nay do CS kiểm soát, gọi là kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.  Kinh tế chỉ huy là nền tảng của chủ nghĩa CS. Bãi bỏ kinh tế chỉ huy có nghĩa là chủ nghĩa CS hoàn toàn thất bại. 

 

Về văn hóa, trước 30-4-1975, NVN vốn chủ trương văn hóa dân tộc cổ truyền, mở cửa đón nhận tinh hoa văn hóa thế giới.  Sau năm 1975, CS truyền bá văn hóa Mac-xít, nhưng vô hiệu. Văn hóa cổ truyền vả tinh thần VNCH vẫn tiềm tàng trong dân chúng.  Người BVN, kể cả toàn bộ cán bộ CS cao cấp, chuyển đổi hoàn toàn theo nếp sống văn minh và văn hóa NVN, ngoại trừ duy trì tổ chức độc tài CS.


Trong chiến tranh, CS đưa ra chiêu bài chống Mỹ cứu nước.  Nay CSVN lại rước Mỹ giúp nước. Ngày 3-2-1994, Hoa Kỳ bỏ cấm vận Việt Nam và bình thường hóa ngoại giao ngày 11-7-1995.  Từ đó, các nước tư bản bắt đầu vào Việt Nam đầu tư. Tuy nhiên, do CS không có cán bộ đủ năng lực quản lý nền kinh tế thị trường, nên tham nhũng tràn lan khắp nước.


Trong thời gian nầy, ngành INTERNET xuất hiện đúng lúc, làm bộc phát thông tin trên mạng lưới toàn cầu.  Những bài viết của người Việt trong và ngoài nước phô bày thực trạng độc tài đảng trị, lệ thuộc Tàu cộng, kinh tế yếu kém, bóc lột, tham nhũng, tệ nạn xã hội … đều được đưa lên internet.  


Để duy trì quyền lực, CS duy trì độc đảng, độc quyền chính trị, văn hóa, truyền thông, với nền giáo dục phục vụ CS, và chỉ nới lỏng dần dần những luật lệ không quan trọng.  Trộm cướp, đĩ điếm bộc phát, xã hội xáo trộn. Dân chúng không còn sợ nhà nước CS như trước, đua nhau khiếu kiện trên toàn quốc, và tham gia những cuộc biểu tình chống Trung Cộng đe dọa Biển Đông.  Nhà cầm quyền CS đàn áp biểu tình, đàn áp tinh thần yêu nước của dân chúng, làm lộ rõ thêm bộ mặt phản quốc của CS.


Trong lúc đang khó khăn, thì thiên tai ập đến. Đồng bằng sông Cửu Long từ từ nhiễm mặn, khô cằn nứt nẻ. Vựa lúa của dân tộc bị đe dọa. Ngoài nước, cuộc thương chiến Hoa Kỳ-Trung Cộng từ 2018; dịch siêu vi khuẩn Vũ Hán (Trung Cộng) bùng phát đầu 2020, ảnh hưởng đến Việt Nam, vì kinh tế Việt Nam gắn liền với kinh tế Trung Cộng. Nếu tình trạng nầy kéo dài, Việt Nam có thể sẽ bị khủng hoảng trầm trọng. 


Ngày nay, sau 45 năm thống trị Việt Nam, dầu CS tuyên truyền thế nào đi nữa, thì dân chúng cũng không còn tin tưởng CS.  Kinh tế suy thoái, ngân quỹ cạn kiệt, nợ nần tràn ngập đến hồi phá sản, đàn anh Tàu Cộng liểng xiểng, ghế dựa của CSVN lung lay. 


Trước khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, CSVN đã nhảy trước tại hội nghị Thành Đô tháng 9-1990, bỏ Liên Xô chạy theo Trung Cộng để tự cứu.  Ngày nay, Trung Cộng đang khó khăn lụn bại, và lâm nguy, không còn dựa hơi được nữa, là cơ hội để CSVN nhanh chân thoát Trung, nhảy thêm bước nữa.  


Có hai tấm gương trước mắt: 1) Từ năm 1990, các nước Đông Âu vĩnh viễn từ bỏ các chế độ CS.  Chỉ sau vài thập kỷ, các nước Đông Âu hầu như bắt kịp các nước Âu Mỹ. 2) Hiện nay, trong nước, sinh viên, học sinh Việt Nam du học nước ngoài, đều chọn du học các nước Âu Mỹ.  Trên 38,000 du học sinh Hoa Kỳ. Đó là chưa kể du học Anh, Pháp, Nhật, Úc. Chỉ một số rất ít được học bỗng mới qua Trung Cộng. Tuổi trẻ rất sáng suốt. Chuyến tàu đổi mới do sinh viên cầm lái đã khởi động.  Các toa dân chúng đã đầy ắp. Chỉ toa dành cho lãnh đạo CS còn trống. Thiên thời đã sẵn sàng. Cơ hội không phải dễ có.


Vậy lãnh đạo CSVN hãy can đảm nhanh chân theo con em mình kẻo trễ.  Còn hơn là lú lẫn ôm mãi cái chủ nghĩa CS lỗi thời, giữ chút hư danh và quyền lợi, cản đường dân tộc, lại lệ thuộc bắc phương, bị bắt nạt trên Biển Đông.  Lâu lâu, Trung Cộng ngứa tay tát tai vài cái giải trí. Thật nhục nhã mà vẫn ngậm miệng ăn tiền. Rồi sẽ có lúc không tránh khỏi số phận Nicolae Ceausescu (Romania) chập chờn đâu đó!


TRẦN GIA PHỤNG

(Texas, tháng 4-2020)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.