Hôm nay,  

Tùy Cảm Hoa Cỏ Bên Đường Kiều Mỹ Duyên

24/04/202111:43:00(Xem: 2409)


Làm người, không có gì hào sảng hơn, là được sinh tử với những gì mình hằng mong sinh tử cùng. Làm phóng viên, không có gì cảm hứng hơn là được thành nhân chứng của những nhân chứng và sự kiện. Cả hai nguyện ước, đời và nghề, đã làm nên một miền hoa cỏ có tên gọi là Kiều Mỹ Duyên. 

Nói là miền bởi trong các tác phẩm dung dị viết ra như không ấy lại nặng trĩu tình người, tình quê hương, và tình nhân loại như là bản nhiên hiện sinh trong góc nhìn báo chí sôi động như lời của tác giả, “Tôi không viết truyện mơ mộng lên cung trăng, tôi viết về người thật việc thật, viết hoài không hết, cần gì bay lên Trời, hay bay lên cung Trăng thăm chị Hằng. Tôi sống thật, thương thì nói là thương, ghét ai thì im, không nói ghét, vì người nào cũng có điểm dễ thương của họ. Họ không thích mình tại vì mình không khéo léo, thế thôi.” Thế thôi- tối giản nên chứa đựng can trường như kẻ đi vào bát phong thị phi mà chẳng ngại ngần.

Trong Chinh Chiến Điêu Linh, Kiều Mỹ Duyên tuyên từ, “chiến trận đối với người phóng viên chiến trường cũng tựa như ánh đèn sân khấu đối với người nghệ sĩ.” Đó quả nhiên là duyên khởi của một nghiệp nữ nhưng chí trượng phu vác bút xông pha chinh chiến trên bốn vùng chiến thuật, được sống với cái chết và được chết với đau thương trong tận cùng giới hạn của bi thảm binh lửa. Âu đó cũng là cái phúc can đảm đời người. Người phóng viên, với kỹ năng làm báo và sự may mắn, có thể trở thành ký giả xuất sắc nhưng nếu không duyên trì tự tính, ắt rằng khó có thể được cửa mở ra với mọi tấm lòng dù hao mòn vân tay gõ. Bút lực và nhãn quan tận hiến, Kiều Mỹ Duyên tiếp cận và đối thoại với mọi đối tượng để chuyển tải thông tin và kể lại những câu chuyện chính sự cũng như bên lề để phụng sự độc giả và khán thính giả. Đa dạng nhưng chẳng hề phân tán, Kiều Mỹ Duyên đi sâu khai thác vào bốn đề tài trở thành máu thịt: Hoạt động tôn giáo, Chính trị Việt Nam, Tri ân chiến hữu chiến sĩ, và Tình tương thân, tương ái cộng đồng vô phân biệt trong và ngoài nước.

Lòng thành, Kiều Mỹ Duyên kết nối mọi tấm tình

Hoa Cỏ Bên Đường cho người đọc được gặp gỡ với bao nhiêu phẩm hạnh đa dạng từ các vị ngôi trên tôn giáo, nhà chính trị lừng danh thế giới cho đến những thân phận con đỏ, con đen xứ Việt và ngoài xứ Việt. Mọi nhân vật hiện ra, dù khác biệt đức tin hay chính kiến, đều bình đẳng trong con chữ mộc mạc chân thành với những hoài bão về một đất nước Việt Nam hạnh phúc và hòa bình, Dân Chủ và Tự Do, một cộng đồng Việt hải ngoại mạnh mẽ và có tiếng nói trong không gian chính trị, tôn giáo, và văn hóa của Hoa Kỳ nói riêng và thế giới. 

Niềm thiêng ấy hiện ra trong từng con chữ tràn đầy tự hào và khát vọng khi Kiều Mỹ Duyên viết về những vị chức sắc tôn giáo cao hạnh như “hai viên ngọc kim cương của Phật Giáo Việt Nam” là Thiền Sư- Thi sĩ Tuệ Sỹ và Thiền Sư- Triết Gia Lê Mạnh Thát. Kiều Mỹ Duyên duyên phước được gặp và viết về Hòa Thượng Thích Tâm Châu, vị cao tăng “ kiến thức uyên thâm, đi khắp nơi thế giới hoằng pháp” và không ngơi nghỉ tranh đấu cho một Việt Nam tự do lạc phúc. Kiều Mỹ Duyên là nữ “nang-pa- người ở trong” cõi Phật nhưng thiện tính, chị cũng trong lành một tâm hồn dâng Chúa. Kiều Mỹ Duyên dành sự tri ơn với Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt, và Linh Mục Anthony Đào Quang Chính. Linh thể phụng sự Chúa, vị cha chánh xứ của nhà thờ Saint Catherine of Alexandria, Temecula, California và Hạt Trưởng hạt Hemet, Giáo Phận San Bernadio, hiếu thảo nhường một phần cơ thể mình để duy trì sự sống của thân phụ. Đạo và đời, tình yêu thương và trí tuệ uyên bác tương giao đã làm nên chân dung Linh Mục Anthony Đào Quang Chính, một vị Linh Mục từ tâm tương liên văn hóa mang trong mình dòng máu Việt. 

Quê hương Việt Nam cồn cào ngòi bút của Kiều Mỹ Duyên.

Kể cả khi phỏng vấn các nhà chính trị hay học giả phương tây, Kiều Mỹ Duyên trước sau cũng trọng tâm hướng về nước Việt và con người Việt. Trong câu chuyện với cựu tổng tống Liên Bang Xô Viết Mikhail Sergeyvich Gorbachyov, Kiều Mỹ Duyên cũng không quên đặt vấn đề trực diện về Tự Do và Dân Chủ của Việt Nam. “Bao giờ Trung Quốc có Tự Do thì Việt Nam có Tự Do.” Câu trả lời ngắn gọn mà thấu suốt lịch sử thăng trầm của hai nước Việt- Trung nói lên tầm vóc của một chính trị gia- một nhân vật lịch sử góp phần làm tan băng chiến tranh lạnh- thật đáng để cho các sử gia cũng như người Việt suy ngẫm về thế sự dân tộc từ góc nhìn quan hệ quốc tế đa chiều. Tôi mong một ngày nào đó, Kiều Mỹ Duyên sẽ giới thiệu đầy đủ với bạn đọc tất cả những cuộc phỏng vấn của chị bởi đó là tư liệu sử và báo chí đáng quý.

Lòng tự tôn dân tộc, sự tri ân và chia sẻ với thế hệ đi trước, đặc biệt là với các cựu quân nhân và gia quyến chịu đựng khổ đau trước và sau 1975 là động lực khởi dậy những hoài bão của Kiều Mỹ Duyên về một cộng đồng Việt Nam “có chỗ đứng quan trọng trong các sinh hoạt tôn giáo, chính trị ở khắp nơi trên thế giới. Sự thành công của thế hệ thứ nhất và nhiều thế hệ sau này là niềm hãnh diện của người Việt Nam.” 

Việt Nam yêu thương, Việt Nam đau thương, Việt Nam là mảnh đất của máu và nước mắt nhưng cũng là vùng đất thơ mộng và kiêu hùng của những Thiên Thần Mũ Nâu không bao giờ vơi trong ký ức sống của mỗi người Việt. Mỗi con người là mỗi mảnh đất tha hương nhưng không rời bỏ quê hương. Người đọc có thể nghẹn lòng “nghe tiếng nói đau đớn của các quả phụ tử sĩ, của cô nhi về người thân của họ, là tôi muốn khóc. Không ai quên những người đã chết. Họ vẫn còn sống đây với vợ con, cha mẹ. Họ vẫn còn sống ở đây với chiến hữu, đồng bào. Họ vĩnh viễn sống trong trái tim của những người thương mến họ. Hỡi vong linh các chiến sĩ oai hùng, xin phù hộ cho mọi người, nhất là đoàn hậu duệ, nối gót cha ông.”

Đó là lời chứng của một con người đi qua cuộc chiến, mang quá khứ vào hiện tại để nuôi nấng tương lai.

Dòng máu giúp người thương đời của bậc phụ mẫu gieo mầm và nảy nở làm nên tâm hồn đa cảm nhưng không thiếu sự quyết liệt dấn thân vào những chuyến đi, những câu chuyện, những thân phận khác lạ những chẳng hề xa lạ trong đời sống như Kiều Mỹ Duyên tâm tình, rằng: Cha Mẹ nào cũng có nhiều đề tài để con cháu viết truyện viết sách. Mẹ tôi cũng vậy, sự mộc mạc chất phác của Mẹ tôi, tình thương người của Mẹ tôi cũng đủ để tôi viết dài dài. Để viết “dài dài” về một biến cố lịch sử không khó nhưng viết dài dài về một “sự mộc mạc” là không hề dễ dàng. Bằng nụ cười hồn nhiên, bằng nước mắt chia sẻ, chị biến bao nhiêu sự mộc mạc thành phẩm hạnh đời sống chị sống cùng và sống trong nó từng hơi thở.

Mưu sinh thời công nghệ, thời gian dường như ngày càng ngắn lại trong khi con người bận rộn hơn vì vậy tình yêu thương và sự chia sẻ cũng theo đó mà hư hao. Hoa Cỏ Bên Đường, với sự mộc mạc của mình, thức tỉnh lương tâm: “Xin đừng bao giờ nói: tôi bận quá, tôi không có thì giờ, tôi không có thì giờ. Hãy bao dung, hãy rộng lượng, hãy thương người như thể thương thân, thì chúng ta có 24 giờ một ngày là nhiều lắm.Thương người, đây là giá trị tinh thần quan trọng lắm… Thương người nên cho họ những gì thuộc về tinh thần: một lời cầu nguyện chân thành, những nụ cười hiền lành, tiếng cười giòn tan.”

Vậy thì có gì đâu mà chần chừ, 24 giờ dẫu bộn bề, chúng ta hãy cho nhau thời gian, dành chút chia sẻ với những khúc tâm tình Hoa Cỏ Bên Đường của Kiều Mỹ Duyên. 

Bởi, có được một tiếng cười giòn tan đâu phải là niềm hạnh phúc chúng ta dành cho người mà còn cho chính bản thân chúng ta.


Bài của Ngã Văn

Lễ Phục Sinh, Hill, 2021


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?
Ngày 30/4 năm thứ 46 sau 1975 đặt ra câu hỏi: Còn bao nhiêu năm nữa thì người Việt Nam ở hai đầu chiến tuyến trong chiến tranh mới “hòa giải, hòa hợp” được với nhau để thành “Một Người Việt Nam”? Hỏi chơi vậy thôi chứ cứ như tình hình bây giờ thì còn mút mùa lệ thủy. Nhưng tại sao?
30 tháng Tư. Đó là ngày nhắc nhở chúng ta cần có dự tính cho tương lai. Vào năm 1975, ai có thể ngờ rằng sẽ có gần 2 triệu người Việt tại Hoa Kỳ nuôi dưỡng cuộc sống có ý nghĩa và đóng góp một cách đáng kể cho xã hội? Ai ngờ được rằng hiện đã có thế hệ người Mỹ gốc Việt thứ ba, thứ tư?
Tổng thống Joe Biden như một người thuyền trưởng, nắm con thuyền quốc gia giữa cơn bão dữ. Chỉ trong cơn sóng lớn mới thấy được khả năng người lèo lái. Những thách thức vẫn còn trước mặt, nhưng con thuyền quốc gia hứa hẹn sẽ đến được chân trời rộng mở. Sự lãnh đạo và phục vụ thầm lặng, bền đỗ cho quốc gia và người dân của tổng thống Joe Biden đã được chứng minh bằng kết quả hiển hiện trong 100 ngày vừa qua.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.