Hôm nay,  

Khi Nào Một Đế Chế Sụp Đổ? Thời Gian Có Đứng Về Phía Putin?

12/07/202400:00:00(Xem: 2375)

Hình ghép
Chính vì ranh giới mơ hồ của thời gian mà Putin đặt mọi hy vọng vào đó, cho rằng mình có nhiều thời gian hơn Ukraine và phương Tây, rằng thời gian sẽ cạn kiệt đối với châu Âu và làm họ càng chia rẽ hơn; rằng Trump sẽ thắng cử vào tháng 11 và sẽ giúp đặt lại cuộc chiến ở Ukraine bằng một thỏa thuận với Nga.


[Putin cho rằng thời gian là công cụ giúp giữ vững đế chế của mình, nhưng đồng hồ đang điểm cho đế quốc Nga.]

Không ai biết chắc khi nào một đế chế sẽ sụp đổ. Chẳng ai có thể xác định chính xác thời điểm Đế chế La Mã, Bồ Đào Nha, Ottoman hay Anh kết thúc. Trong bài thơ "Waiting for the Barbarians", nhà thơ Hy lạp Constantine P. Cavafy nhiều lần khẳng định rằng những kẻ man rợ sẽ đến hôm nay. Người ta chờ đợi, như thể đây là chuyện thường nhật như việc một công ty sẽ phá sản, hay một buổi lễ ra trường vậy. Nhưng một đế chế thì sao? Liệu vào thời của mình, nhà thơ Hy Lạp Cavafy có thuộc về một đế chế nào đáng để gọi là đế chế không?

Khó để thấy được thời gian và giới hạn của các đế chế. Nga hiện nay là một ví dụ điển hình. Cuộc tấn công vào Ukraine bị lên án là tội ác, nhưng ít người thấy điều quan trọng hơn: đó là giai đoạn mới nhất trong sự tan rã của đế chế Nga, một quá trình đã diễn ra ít nhất một trăm năm và vẫn đang tiếp tục. Không ai biết sẽ kéo dài bao lâu. Nhưng những gì đang diễn ra hiện nay phản ánh sự yếu kém, sợ hãi và tuyệt vọng của Kremlin hơn là tham vọng bành trướng. Cuộc chiến thật sự là sự cố gắng cứu vãn những gì có thể, không phải là chinh phục thêm.

"Chiến dịch quân sự đặc biệt" của Nga là một thất bại đáng sợ. Tất cả mọi tính toán gần như đều đã sai lầm. Người Ukraine không trở thành người Nga, chế độ "phát xít" của họ không bị lật đổ, các thành phố lớn như Kiev, Kharkiv hay Lviv không bị chinh phục. Mặt trận tiền tuyến của Nga gần như không nhúc nhích thêm được chút nào mà cái xã hội dân chủ thì vẫn đang tiếp tục. Trong khi người ta ăn kem ở các quán cafe thì những người khác lại bị giết trong các chiến hào.

Thế nhưng không phải ai ở châu Âu cũng có cùng quan điểm. Viktor Orbán của Hung Gia Lợi nói rằng tất cả chỉ là một cuộc nội chiến giữa hai giống dân Slav, không liên quan đến chúng ta, những người dân châu Âu. Chúng ta ủng hộ hòa bình, không phải chiến tranh. Đó chỉ là một cách nói khác để chống chế cho rằng cái đế chế đó sẽ tồn tại và Nga sẽ thắng mọi cuộc chiến trong tương lai.

Nhưng Nga có thể còn chiến thắng không khi đến ngay cả từ "chiến tranh" cũng phải tránh. Sự bất lực như vậy tạo ra những căng thẳng nội bộ đẩy nhanh sự tan rã của đế chế mà chúng ta ở phương Tây thậm chí không thể tưởng tượng được. Chúng ta thực sự biết gì về nền kinh tế Nga? Rất ít. Nhưng ước tính đáng tin cậy cho thấy gần một nửa nền kinh tế Nga trực tiếp hoặc gián tiếp dính líu đến một cuộc chiến mà chính thức không tồn tại. Nếu đúng, điều này thật đáng kinh ngạc, không dân tộc nào ủng hộ một nền kinh tế chỉ thuần túy phục vụ chiến tranh;  ít nhất là khi nó bắt đầu ăn sâu vào cuộc sống hàng ngày.

Người Nga ủng hộ hay phản đối "chiến dịch quân sự đặc biệt"? Trong một chế độ độc tài, không ai có thể biết chắc được. Nhưng câu trả lời đơn giản là: miễn người Nga không phải chiến đấu, họ không phản đối. Quân đội của Putin làm mọi cách để duy trì cuộc chiến: trả lương cao, ân xá cho tù nhân "tình nguyện," cung cấp bàn chải đánh răng và ba bữa ăn mỗi ngày cho những người không biết đọc biết viết, và tạo cơ hội cho người Chechnya và các dân tộc thiểu số thể hiện lòng anh hùng.

Sức mạnh của nền dân chủ nằm ở nghĩa vụ quân sự và thuế má được vận hành qua sự đồng thuận của công dân. Nga thì khác – Putin không thể tuyên chiến hoặc ra lệnh tổng động viên hàng loạt để bổ sung lực lượng tại tiền tuyến. Vì như thường lệ, khối lượng và số lượng binh lính là vũ khí chiến thắng của Nga trong lịch sử, nhưng Putin lại không dám phát động chiến tranh vì người Nga, không chỉ những người có học ở các thành phố lớn, sẽ từ chối tham gia. Putin lo sợ rằng một "cuộc trưng cầu dân ý" công khai có thể đánh dấu sự kết thúc của ông ta.

Putin không thể nhúc nhích, đặc biệt là khi Tập Cận Bình đã kín đáo nhưng kiên quyết cấm ông ta sử dụng vũ khí hạt nhân và cẩn thận để Mỹ không coi Trung Quốc là đồng minh tích cực và nhà cung cấp vũ khí. Putin đang mắc kẹt trong gọng kìm Ukraine. Không phải ông ta là người quyết định, mà là Ukraine cùng với phương Tây quyết định bao lâu, và hy vọng của Putin chính là thời gian.

Putin đã ước mơ sử dụng Thế chiến II làm mô hình cho Ukraine, một kết thúc bằng chiến thắng hoàn toàn.

Còn chúng ta, bây giờ chúng ta làm gì?

Câu hỏi được đặt ra khi mọi thứ lại được bắt đầu theo các điều kiện mới. Sự sụp đổ của đế chế Nga chắc chắn phụ thuộc vào thời gian, nhưng với sự khởi đầu mơ hồ và kết thúc lại còn mơ hồ hơn. Cũng không thể nói rằng thời gian đứng về phía Ukraine hay không, ngay cả khi đất nước này tồn tại (không phải là sống sót).

Nhưng chính vì ranh giới mơ hồ của thời gian mà Putin đặt mọi hy vọng vào đó, cho rằng mình có nhiều thời gian hơn Ukraine và phương Tây, rằng thời gian sẽ cạn kiệt đối với châu Âu và làm họ càng chia rẽ hơn; rằng Trump sẽ thắng cử vào tháng 11 và sẽ giúp đặt lại cuộc chiến ở Ukraine bằng một thỏa thuận với Nga.
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ngày 27/08/2024 về đường lối khóa đảng XIV cho thấy ông không dám đi ra khỏi quỹ đạo một người Cộng sản bảo thủ để được tồn tại...
Kamala nhắc lại Donald Trump đã cảm ơn Tổng Thống Tập Cận Bình về những gì ông ta đã làm trong thời gian đại dịch COVID. Bà nhớ cả nội dung Trump đã viết trên Twitter: “Thank you, President Xi” và đọc lại cho chục triệu người dân Mỹ đang xem màn hình. “Khi chúng ta biết rằng Tập Cận Bình phải chịu trách nhiệm vì không cung cấp và cung cấp không đầy đủ cho chúng ta sự minh bạch về nguồn gốc của COVID.” Kamala nhắc lại cả việc Donald Trump đã mời Taliban đến David Camp, “là một nơi có ý nghĩa lịch sử đối với chúng ta, với tư cách là những người Mỹ, một nơi mà chúng ta tôn vinh tầm quan trọng của ngoại giao Hoa Kỳ, nơi chúng ta mời và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới được kính trọng. Và cựu tổng thống này với tư cách là tổng thống đã mời họ đến David Camp vì ông ta, một lần nữa, không biết tầm quan trọng và trách nhiệm của tổng thống Hoa Kỳ. Và điều này quay trở lại vấn đề ông ta đã liên tục hạ thấp và coi thường các quân nhân của chúng ta, những người lính đã hy sinh...
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.