Hôm nay,  

Chiến Tranh Nguyên Tử Sẽ Không Xảy Ra?

06/12/202400:00:00(Xem: 1499)

nguyen tu
Trước tình hình thế giới hiện nay, một số quốc gia đang gấp rút chuẩn bị cho các tình huống xấu nhất, một số khác thì “bình chân như vại.” (Nguồn: pixabay.com)

Cuộc chiến tại Ukraine vẫn đang tiếp tục leo thang. Trong nhiều tháng, tình hình chiến sự diễn ra theo chiều hướng không mấy thuận lợi cho Ukraine. Khoảng cuối tháng 11/2024, chính quyền Tổng thống Joe Biden đã quyết định cho phép Ukraine sử dụng hệ thống phi đạn chiến thuật tầm xa Atacms do Hoa Kỳ cung cấp. Đây là lần đầu tiên Kyiv được phép sử dụng loại phi đạn này để tấn công sâu vào lãnh thổ Nga.
 
Không chỉ có Hoa Kỳ, các đồng minh ở Âu châu như Anh và Pháp cũng nhập cuộc. Trước đó, cả hai quốc gia này đều đã ngầm đồng ý rằng họ sẽ cho phép Ukraine sử dụng vũ khí của mình nếu Hoa Kỳ “dẫn đầu” cho trước.
 
Ngay sau đó, Putin đã đưa ra lời đe dọa rõ ràng: ký một sắc lệnh hạ thấp ngưỡng cho phép việc sử dụng vũ khí nguyên tử. Theo sắc lệnh này, Nga có thể sử dụng vũ khí nguyên tử không chỉ trong trường hợp bị tấn công nguyên tử, mà ngay cả khi đó chỉ là một cuộc tấn công thông thường nhưng đe dọa nghiêm trọng đến “chủ quyền và/hoặc toàn vẹn lãnh thổ” của Nga hoặc đồng minh Belarus.
 
Vào ngày 21/11, những lo ngại về nguy cơ chiến tranh nguyên tử càng gia tăng khi xuất hiện thông tin về việc Nga có thể đã phóng một phi đạn đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) vào Ukraine. Dù chưa được xác nhận rõ ràng, thông tin này làm nhiều người tin rằng nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh nguyên tử đang đến gần hơn bao giờ hết. 
 
Thế giới từng đối mặt với mối đe dọa tương tự, nhưng đó đã là chuyện của nhiều năm trước đây. Những ai thuộc thế hệ trước có thể vẫn còn nhớ đến cuộc khủng hoảng phi đạn Cuba vào tháng 10 năm 1962, khi Hoa Kỳ và Liên Xô ở bên bờ vực của một cuộc chiến tranh nguyên tử. Thời điểm đó, dư luận công chúng vô cùng lo ngại. Cuối cùng, căng thẳng đã được xoa dịu nhờ một thỏa thuận bí mật: Hoa Kỳ rút các phi đạn nguyên tử của mình khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng lúc bấy giờ, phần lớn công chúng đều nghĩ rằng chỉ có Liên Xô là bên nhượng bộ chứ Hoa Kỳ chẳng đời nào chịu nhún nhường.
 
Giờ đây, nỗi ám ảnh về nguy cơ chiến tranh nguyên tử đã quay trở lại. Một số quốc gia nằm gần Nga, như Thụy Điển, Na Uy và Phần Lan, đã tăng cường chuẩn bị dân sự, hướng dẫn người dân các kỹ năng và biện pháp ứng phó với chiến tranh, chẳng hạn như cách cầm máu, cách kiểm soát căng thẳng đầu óc (họ khuyên người ta “bớt đọc tin tức lại”), và dự trữ các nhu yếu phẩm như nước uống và sản phẩm vệ sinh.
 
Tại Đức, chính phủ đã cảnh báo người dân nên chuẩn bị tâm lý cho nguy cơ chiến tranh gần kề. Trong khi đó, các quốc gia khác như Anh vẫn chưa có hành động gì.
 
Vì sao một số quốc gia tỏ ra lạc quan hơn?
 
Sự khác biệt trong cách phản ứng trước nguy cơ chiến tranh giữa các quốc gia có thể được giải thích qua hiện tượng thiên kiến lạc quan (hay khuynh hướng lạc quan, từ tiếng Anh là optimism bias, lạc quan quá mức). Đây là khuynh hướng tâm lý mà người ta đánh giá quá cao cơ may những điều tốt đẹp sẽ xảy ra với mình và không nghĩ những chuyện xui xẻo sẽ có thể ập đến.
 
Theo một nghiên cứu, có khoảng 80% dân số thế giới mang một dạng thiên kiến lạc quan nào đó. Tuy nhiên, phần lớn dữ liệu này được thu thập từ các quốc gia phương Tây như Hoa Kỳ và Anh. Những người theo khuynh hướng lạc quan thường tin rằng hôn nhân của họ sẽ hạnh phúc bền lâu (chứ không đổ vỡ như của thiên hạ), và rằng cuộc đời họ sẽ viên mãn hơn những người khác. Hoặc lấy thí dụ khác, những người lạc quan thường tin rằng biến đổi khí hậu chỉ có ảnh hưởng đến “người ta” hoặc “đời sau,” chứ không phải bản thân họ.
 
Các nghiên cứu tâm lý chỉ ra rằng người phương Tây dễ lạc quan quá mức hơn. Theo Steven Heine và Darrin Lehman, các giáo sư tại Đại học British Columbia, dân Canada có mức độ lạc quan phi thực tế cao hơn so với người Nhật. Một nghiên cứu khác cũng cho thấy dân Mỹ có khuynh hướng lạc quan cao hơn người Nhật trong nhiều khía cạnh.
 
Thiên kiến lạc quan không chỉ giới hạn ở các khía cạnh cá nhân mà còn ảnh hưởng đến cách con người nhìn nhận các vấn đề khác lớn hơn, chẳng hạn như các thảm họa tự nhiên và khủng bố. Một nghiên cứu chỉ ra rằng, đối với các vụ khủng bố, người Nhật có mức độ cảnh giác nguy hiểm cao nhất, trong khi người Bắc Mỹ và Argentina lại có mức độ cảnh giác thấp nhất. Tương tự, dân TQ bi quan hơn Hoa kiều, còn Hoa kiều lại bi quan hơn dân Mỹ da trắng.
 
Điều này dường như phản ánh một đặc điểm tính cách đặc trưng của người Mỹ. Một nghiên cứu đo lường mức độ lạc quan và lo lắng giữa trẻ em và thanh thiếu niên ở Nga và Hoa Kỳ cho thấy, thanh thiếu niên Hoa Kỳ thường lạc quan hơn về tương lai và ít lo lắng hơn về cả chuyện cá nhân lẫn chuyện thời sự.
 
Vì sao con người không thích nghe tin xấu?
 
Thiên kiến lạc quan được cho là xuất phát từ cách con người chọn lọc thông tin. Người lạc quan có khuynh hướng tránh né hình ảnh và thông tin tiêu cực để giữ cho tinh thần mình tích cực. Họ sẽ cố gắng không xem những tin xấu hoặc tin buồn. 
Khi đối mặt với tin tức xấu, não bộ của họ giải quyết những thông tin này theo cách riêng. Hình ảnh soi đa chiều (fMRI) cho thấy rằng rãnh dưới bên phải của vùng vỏ não trước trán (right inferior prefrontal gyrus) có mức độ mã hóa thần kinh thấp hơn khi phải giải quyết thông tin tiêu cực. Nói cách khác, họ không chỉ có khuynh hướng thiên lệch trong sự chú ý (chọn tập trung vào điều tốt và bỏ qua điều xấu) mà còn gặp khó khăn trong việc học hỏi từ những điều tiêu cực.
 
Lạc quan: lợi và hại
 
Nói đi thì cũng phải nói lại, lạc quan có nhiều cái lợi rất rõ ràng. Người lạc quan thường sống lâu hơn, ít gặp các bệnh lý nguy hiểm về tim mạch như nhồi máu cơ tim. Nếu có bị mắc ung thư, tinh thần lạc quan cũng giúp bệnh nhân đỡ căng thẳng đầu óc và lo âu, nhờ đó mà hệ thống miễn dịch hoạt động tốt hơn.
 
Không chỉ vậy, niềm tin vào một tương lai tốt đẹp còn thúc đẩy con người hành động tích cực để biến tương lai ấy thành hiện thực. Đây chính là hiệu ứng “tự ứng nghiệm” (self-fulfilling prophecy): sự lạc quan trở thành động lực thay đổi thực tại.
 
Đó là lý do con người được đào tạo để trở nên lạc quan hơn thông qua liệu pháp tự an ủi nhận thức. Đồng thời, lĩnh vực “tự giúp mình” (self-help) đã phát triển mạnh mẽ để cổ vũ lối tư duy tích cực này, dẫn đến một sự thay đổi văn hóa tư duy.
 
Tuy nhiên, cái gì quá mức cũng đều không tốt; lạc quan thái quá cũng sẽ là con dao hai lưỡi. Nhà văn Barbara Ehrenreich, tác giả của cuốn sách Smile or Die, đã phê phán sự lạc quan thái quá, cho rằng nó làm người ta không làm được gì để chuẩn bị đối phó với các mối đe dọa thực sự.
 
Bà viết rằng: “Người Mỹ đã dành nhiều thập niên để rèn luyện cách tư duy tích cực, bao gồm cả thói quen tự động gạt bỏ các tin tức đáng lo ngại.” Ehrenreich nhấn mạnh, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 là một thí dụ điển hình. Khi đó, rất nhiều người chẳng thể nào nghĩ tới những kịch bản xấu nhất, họ bị bất ngờ và thiếu chuẩn bị. Và nếu không thay đổi, một Thế chiến mới sẽ là bài học đắt giá hơn nhiều.
 
Hiện nay vẫn có quan điểm lạc quan đối với tình hình căng thẳng quốc tế. Chẳng hạn, tổ chức vô vụ lợi Brookings Institution ở Hoa Kỳ cho rằng Putin chỉ đang hù dọa thôi chứ thật sự không tính sử dụng vũ khí nguyên tử. Dù lạc quan là tốt, nhưng cũng cần phải chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất, suy cho cùng, đó vẫn là một yếu tố quan trọng để có thể sống còn và vượt qua khủng hoảng.
 
Nguyên Hòa biên dịch
Nguồn: “Why some countries are more likely to believe nuclear war won’t happen to them” được đăng trên trang TheConversation.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuối năm là lúc con người nhìn lại về giá trị cuộc sống. Một bài viết trên trang mạng The Conversation nêu vấn đề về những vực thẳm chính trị, các cuộc chiến tranh, áp bức… và con người vì thế cảm thấy vô vọng và bất lực khi chứng kiến những thế lực đen tối diễn ra khắp nơi trên thế giới. Liệu chúng ta có thể làm được điều gì đem lại thay đổi trước những bi hoại này hay không?
Danh hiệu “Nhân Vật Của Năm” do TIME bắt đầu từ năm 1927 – theo truyền thống được trao cho những người có ảnh hưởng đáng kể trong các sự kiện toàn cầu, từ chính trị đến văn hóa, môi trường, nghệ thuật. Những người được chọn đóng vai trò như một “thước đo phong vũ” về sức lan tỏa trong xã hội đương đại. Ảnh hưởng đó, theo tiêu chuẩn do chính TIME đề ra, có thể là “for better or for worse – làm cho thế giới tốt đẹp hơn hoặc tệ hại hơn.”
Tiễn 2024, thế giới sẽ chào đón một năm mới 2025 mang theo cả bóng tối lẫn ánh sáng. Các cuộc xung đột, sự phân cực chính trị và những rủi ro khôn lường là lời nhắc nhở về sự bất ổn của thời đại. Nhưng đồng thời, khả năng phục hồi kinh tế, sự phát triển công nghệ, tinh thần hợp tác quốc tế, hơi thở và sự sống còn bất khuất của từng người mẹ, từng đứa trẻ vực dậy và vươn lên từ những đống gạch vụn đổ nát ở Ukraine, ở Gaza, ở Syria… cũng là cảm hứng và hy vọng cho tương lai nhân loại. Nhà văn Albert Camus đã viết: “Giữa mùa đông lạnh giá nhất, tôi tìm thấy, trong mình, một mùa hè bất khả chiến bại.”* Thế giới năm 2025, với tất cả những hỗn loạn, vẫn mang đến cơ hội để con người vượt qua và xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, tử tế hơn. Đó cũng là lời chúc chân thành cuối năm của toàn ban biên tập Việt Báo gửi đến quý độc giả: một năm 2025 tràn trề cơ hội và hy vọng.
Trong ba năm học gần đây, PEN America đã ghi nhận hàng loạt trường hợp cấm sách xảy ra trên toàn nước Mỹ, đặc biệt trong các trường công lập. Những nỗ lực xóa bỏ một số câu chuyện và bản sắc khỏi thư viện trường học không chỉ gia tăng mà còn trở thành dấu hiệu của một sự chuyển đổi lớn hơn, đặt ra câu hỏi nghiêm trọng về tương lai của giáo dục công lập. Việc kiểm duyệt này phản ánh một xu hướng đáng lo ngại: sự tập trung vào việc kiểm soát nội dung văn hóa và giáo dục, thay vì khuyến khích học sinh tiếp cận kiến thức đa chiều.
Syria đang sống trong một bước ngoặt lịch sử sau khi chế độ độc tài sụp đổ nhanh chóng và Bashar al-Assad trốn sang Nga để tị nạn. Các nhóm nổi dậy chiến thắng đang cố gắng duy trì trật tự công cộng và thảo luận về các kịch bản cho tương lai. Lòng dân hân hoan về một khởi đầu mới đầy hứa hẹn pha trộn với những lo âu vì tương lai đất nước còn đầy bất trắc. Trong 54 năm qua, chế độ Assad đã cai trị đất nước như một tài sản riêng của gia đình và bảo vệ cho chế độ trường tồn là khẩu hiệu chung của giới thân cận.
Các số liệu gần đây cho thấy những thách thức mà nhà lãnh đạo Trung Quốc phải đối mặt để phục hồi kinh tế cho năm 2025, khi quan hệ thương mại với thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc có thể xấu đi cùng lúc mức tiêu thụ trong nước vẫn sụt giảm. Và thật sự thì nền kinh tế Trung Quốc tệ đến mức nào? Việc đặt câu hỏi này ngày càng trở nên hợp lý khi Trung Quốc đang đối mặt với tình trạng sản xuất trì trễ và tiền tệ mất giá kéo dài trong những năm gần đây. Đặc biệt, chính quyền Bắc Kinh dường như không muốn công khai toàn bộ thực trạng.
Chiều ngày Thứ Ba 17/12, tòa án New York kết án Luigi Mangione 11 tội danh, bao gồm tội giết người cấp độ 1, hai tội giết người cấp độ 2 cùng các tội danh khác về vũ khí và làm giả danh tính. Theo bản cáo trạng, một bồi thẩm đoàn ở Manhattan đã truy tố Mangione về tội giết người cấp độ hai là tội khủng bố. Tòa đã kết tội hành động của Luigi Mangione – một hành động nổi loạn khó có thể bào chữa dù đó là tiếng kêu cuối cùng của tuyệt vọng.
Ngay từ thời điểm này, cho dù chưa chính thức bước vào Tòa Bạch Ốc, tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa hẹn một chiến dịch bài trừ di dân lớn nhất lịch sử Mỹ. Những cuộc kiểm soát, bắt bớ, trục xuất di dân dự kiến sẽ diễn ra với qui mô lớn trong vài năm tới. Nhiều sắc dân nhập cư ở Mỹ sẽ phải lo lắng, nhưng cộng đồng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất sẽ là cộng đồng di dân gốc Mỹ Latin. Lời hứa này đang làm hài lòng những người Mỹ xem dân nhập cư là kẻ cướp đi việc làm và quyền lợi của mình. Rất đông trong số này thuộc các cộng đồng di dân, trong đó có cộng đồng gốc Việt. Tuy nhiên, có bao nhiêu người thấy được toàn cảnh ảnh hưởng của những chính sách bài trừ di dân đến nền kinh tế và xã hội Hoa Kỳ?
Trong tài liệu của Thư Viện Quốc Hội ghi rằng, nguồn gốc của quyền ân xá trong Hiến Pháp Hoa Kỳ đến từ lịch sử Anh quốc. Quyền ân xá xuất hiện lần đầu tiên dưới thời trị vì của Vua Ine xứ Wessex vào thế kỷ thứ bảy. Mặc dù tình trạng lạm dụng quyền ân xá ngày càng tăng theo thời gian, dẫn đến những hạn chế sau đó, nhưng quyền ân xá vẫn tồn tại trong suốt thời kỳ thuộc địa của Mỹ.
Tôi cộng tác với tuần báo Trẻ (tờ báo có nhiều ấn bản nhất tại Hoa Kỳ) gần hai chục năm qua. Sự gắn bó lâu dài này không chỉ vì tấm lòng yêu nghề (và thái độ thân thiện cởi mở) của ban biên tập mà còn vì chút tình riêng. Mỗi tuần Trẻ đều dành hẳn một trang báo, để trân trọng giới thiệu đến độc giả hai ba vị thương phế binh (Việt Nam Cộng Hòa) đang sống trong cảnh rất ngặt nghèo ở quê nhà. Nhìn hình ảnh đồng đội của mình đang ngồi trên xe lăn, hay nằm thoi thóp trong một gian nhà tồi tàn nào đó – lắm lúc – tôi không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Liệu có còn ai nhớ đến những kẻ đã từng vì đời mà đi không vậy?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.