Hôm nay,  

Một Chủ Nghĩa Dân Tộc Mới Tại Á Châu?

7/1/200300:00:00(View: 25934)
Cách đây sáu năm, cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Á khởi đầu với vụ biến động tài chính mùng hai tháng Bảy năm 1997 tại Thái Lan. Ngày nay, cả khối Đông Á chưa hoàn toàn phục hồi, nhưng bài học của cuộc khủng hoảng có thể dẫn tới một chủ nghĩa dân tộc mới cho các nước liên hệ.
Nhắc lại biến cố này, Đài RFA đã trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa về viễn ảnh của một chủ nghĩa dân tộc mới về kinh tế....
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, khi cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ tại Đông Á, sáu năm về trước vào đúng ngày này, Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohammad kết án giới đầu tư quốc tế là gây ra biến động tài chính tại Đông Nam Á. Tuần qua, cũng ông Mahathir đã lại đả kích Tây phương về tội đã qua là xâm lược và bành trướng toàn cầu. Vì vậy giới quan sát quốc tế cho rằng một trong những hậu quả của cuộc khủng hoảng Đông Á là sự tái xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc tại Á châu, điều đó đúng hay sai"
-- Thủ tướng Mahathir phát biểu như vậy trong Đại hội đảng hàng năm của ông, nên người ta cần đặt lời phát biểu của ông vào khung cảnh đó. Nói chung, nhiều giới lãnh đạo ưa tìm ra đối tượng ngoại quốc để đổ lỗi về các vấn đề mình gặp. Khi Malaysia và nói chung các xứ Đông Nam và Đông Bắc Á phát triển nhanh vượt bực nhờ đầu tư nước ngoài thì họ dễ tạm quên tinh thần bài ngoại; khi gặp khó khăn thì tinh thần tiêu cực đó được khoác áo chủ nghĩa dân tộc để tranh thủ hậu thuẫn của người dân và khỏa lấp trách nhiệm của nhà nước. Đây là một thái độ không có lợi ích thực tế cho các nước trong khu vực.
Hỏi: Nhưng thực tế cho thấy trong vụ khủng hoảng 1997-1998 Đông Á có bị chấn động bởi những yếu tố ngoại nhập và điều đó mới giải thích phản ứng bài ngoại nói trên chứ"
-- Đúng như vậy, nhưng các nước Đông Á đã lầm nguyên nhân với hậu quả. Nguyên nhân của vụ khủng hoảng chính là chiến lược phát triển kinh tế Đông Á có thời được coi là sự kỳ diệu Đông Á. Chiến lược đó đã hết tác dụng, nhưng thay vì nhìn vào cái gốc đó, người ta lại nhìn vào cái ngọn là giới đầu tư nước ngoài, trong đó có nhiều nhà đầu tư cũng chẳng phải là Tây phương. Vấn đề ở đây là chiến lược phát triển quá chú trọng đến thị trường xuất khẩu, và rập khuôn theo quy trình sản xuất Tây phương để nước nào cũng dồn sức vào ngành chế biến công nghiệp với lực lượng lao động dồi dào và lương rẻ. Bên cạnh đó, chính quyền các nước, từ Nhật trở đi, còn tích cực yểm trợ kế sách này, và kết hợp ba yếu tố chủ động là nhà nước, doanh nghiệp và ngân hàng để thực hiện cho bằng được lối phát triển hướng ngoại như vậy, bất kể tới doanh lợi hay rủi ro. Khi có sự cấu kết, ta có nạn tham nhũng, có phản ứng kinh doanh đầy rủi ro lỗ lã mà không ai sợ vì tin rằng có chính quyền hỗ trợ ở đằng sau. Nguyên nhân chính của vụ khủng hoảng nằm ở đó và vấn đề của Đông Á ngày nay là chưa hồi phục được mức sống đã có trước 1997 mà chỉ có một nền công nghiệp “ngoài da”, quá lệ thuộc vào đầu tư quốc tế và vào thị trường xuất khẩu trong khi các cơ sở bản xứ sản xuất cho thị trường nội địa lại bị lãng quên, có khi bị chèn ép. Đó là hoàn cảnh của các tiểu doanh thương của tư nhân tại Việt Nam, hoạt động cho thị trường tiêu thụ trong nước chẳng hạn. Nói vắn tắt, người ta giàng cỗ máy kinh tế vào các yếu tố bên ngoài cho nên khi bị biến động thì lại đổ lỗi cho ngoại quốc.
Hỏi: Như vậy, ông cho rằng chiến lược phát triển Đông Á đã hết công hiệu"
-- Nếu nói thật vắn tắt thì đúng như vậy vì hai lý do chính. Về chủ quan thì sau giai đoạn tăng trưởng dài, mức sống dân cư có cải thiện nên lợi thế nhân công rẻ của thời 1970 đã không còn; về khách quan thì có sự xuất hiện của Trung Quốc với lực lượng lao động rẻ hơn và đông hơn gấp bội. Trong thời thịnh đạt của chiến lược Đông Á, các nước mới chỉ công nghiệp hóa ngoài da, là làm gia công cho giới đầu tư nước ngoài để xuất cảng ra ngoài hoặc xuất cảng cho nhau. Họ có, thí dụ như, “sản phẩm chế tạo tại Malaysia” chứ chưa có “sản phẩm của Malaysia”, do khả năng tổ chức và trình độ công nghệ bản xứ vẫn còn thấp. Khi thấy thị trường Trung Quốc rẻ hơn, giới đầu tư chuyển cơ sở vào Hoa lục là kinh tế Đông Á bị khốn đốn mà không có khả năng leo lên cái cấp sản xuất tinh tế hơn, có giá trị gia tăng lớn hơn. Tại Đông Á, may ra có Singapore, Đài Loan hay Hàn Quốc là kịp thoát khỏi tình trạng này. Ngày nay, Trung Quốc là nơi xuất khẩu nhiều sản phẩm điện tử nhất Á châu vào Mỹ, điều đó, vụ khủng hoảng 1997 có thể là dấu hiệu tiên báo mà nhiều nước lại chưa nhìn ra.
Hỏi: Và chủ nghĩa dân tộc trong hoàn cảnh này không giải quyết được gì phải không"

-- Thực ra, ta không nên bi quan quá đáng. Chủ nghĩa dân tộc đó vẫn cần thiết, nhưng nên được đặt đúng chỗ. Như tuần trước, khi nói về sự hình thành của các Chaebols Hàn Quốc hoặc các Tổng công ty 91 của Việt Nam, ta gọi đó là chủ nghĩa dân tộc đặt sai chỗ, để tiếp tục một chiến lược phát triển đã hết tác dụng. Hoặc loại khẩu hiệu chính trị của lãnh đạo nhằm đả kích xứ khác, nhất là các nước Tây phương, là theo đuổi chủ nghĩa thực dân mới hay cũ gì đó... đấy chỉ là biểu hiệu của tinh thần bài ngoại khi thất thế. Nếu đặt đúng chỗ thì chủ nghĩa dân tộc đó cần xét lại từ gốc rễ xem là làm thế nào xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống người dân và giành lại được nhiều quyền quyết định về sản xuất cho người dân trong nước, thay vì bị lệ thuộc vào đầu tư nước ngoài, vào thị trường xuất khẩu và chịu ảnh hưởng không đỡ nổi của những chu kỳ kinh doanh lên hay xuống từ ngòai. Khi kinh tế Mỹ, Nhật hay Âu châu suy trầm và mua ít hơn thì chẳng phải vì mấy xứ đó muốn bóc lột các nước nghèo và hạn chế nhập khẩu mà vì mình để bị lệ thuộc quá nặng vào các thị trường đó, trong khi xao lãng thị trường nội địa. Trường hợp này đáng chú ý cho các quốc gia có dân số đủ đông -như Việt Nam- để số cầu nội địa có thể là lực đẩy bổ sung cho thị trường xuất khẩu. Tôi thiển nghĩ là sớm muộn gì thì các xứ Đông Á cũng sẽ tìm ra một chủ nghĩa dân tộc trưởng thành về kinh tế, Thái Lan có lẽ đã đi bước đầu.
Hỏi: Ông hay nói về Thái Lan, họ có loại kinh nghiệm gì mà Việt Nam có thể học được"
-- Khi Thủ tướng Thaksin Shinawatra của Thái nhậm chức vào đầu năm 2001, ông ta cũng có khẩu hiệu sặc mùi dân tộc như Thủ tướng Mahathir, nhưng, đó là lối vận động chính trị của ông ta. Ưu điểm của Thaksin là ông ta hoạt động trong doanh trường trước khi là chính trị gia nên tính toán thực tế hơn để khỏi bị khẩu hiệu chính trị tự mê hoặc mình. Dưới sự lãnh đạo của ông, Thái Lan đã tự kiểm điểm để thấy trước tiên sự bất toàn của chiến lược Đông Á. Chiến lược đó rập khuôn quy trình sản xuất Tây phương ở một cấp thấp hơn và bán cho Tây phương loại mặt hàng rẻ hơn vì thâm dụng nhân công mà Tây phương hết muốn làm nữa. Thế rồi, tiến theo bậc thang của Tây phương, các nước cũng học luôn cả lề lối sinh hoạt của họ mà lãng quên cái gọi là bản sắc dân tộc và nhất là một thành phần dân số đông đảo không sống trong khu vực tôi xin tạm gọi là phục vụ thị trường nước ngòai. Xã hội vì vậy phát triển theo hai hướng trong ngoài, bên ngoài chạy nhanh hơn bên trong, và khi thị trường bên ngoài suy sụp, hoặc gặp cạnh tranh lớn từ phía Hoa lục chẳng hạn, kinh tế bị khủng hoảng và xã hội cũng bị biến động.
Hỏi: Từ những lượng định đó, Thái Lan đã làm những gì theo hướng nào thưa ông"
-- Tôi thiển nghĩ rằng mỗi quốc gia hay dân tộc lại có đặc tính văn hóa và kinh tế khác biệt mà mình không thể rập khuôn bắt chước. Từ nguyên tắc đó, xin nói sơ về chiến lược mà Thái Lan đang theo đuổi và nhiều xứ khác đang theo dõi để học hỏi hay thử nghiệm. Thứ nhất, họ không đả phá kinh tế thị trường và lợi ích của toàn cầu hóa hoặc đả kích giới đầu tư nước ngoài về những vấn đề của mình rồi giao cho chính quyền trách nhiệm lãnh đạo công cuộc phát triển. Điều này, Việt Nam rất nên chú ý. Thứ hai, họ nhìn từ trong ra ngoài, từ nhu cầu quốc dân ra môi trường quốc tế thay vì nhìn ngược lại, để tìm xem ưu thế của mình là gì thay vì chỉ lệ thuộc vào thị trường xuất khẩu. Thứ ba, đối chiếu các yếu tố trong ngoài, họ tìm một thế cạnh tranh tinh tế hơn là lối cạnh tranh của chiến lược cũ, là dựa trên sản phẩm đồng dạng mà rẻ hơn chẳng hạn. Thứ tư, từ lượng định đó, họ thấy là nguồn nhân lực trong nước chưa đủ tinh vi để có thể cạnh tranh hữu hiệu, cho nên giáo dục và thông tin phải là ưu tiên. Sau đó, và bước qua lãnh vực hành động, họ tìm cách khai thác những ưu thế nội tại của xứ sở, thí dụ như đặc tính văn hóa, địa dư, lịch sử, tài nguyên, tay nghề, v.v... để phát triển một số ngành nghề có khả thu thu hút ngoại tệ, kể cả du lịch văn hóa cấp cao. Từ đó, và đây là yếu tố thứ sáu, họ tìm cách đa năng hóa và đa diện hóa hoạt động sản xuất, cụ thể là mở ra hai hướng phát triển, vừa nâng cao khả năng tiêu thụ và sản xuất nội địa, vừa tinh vi hóa khả năng cạnh tranh ở bên ngoài.
Hỏi: Câu hỏi cuối ở đây, Việt Nam đã cần học hỏi kinh nghiệm này chưa và điều đó sẽ ảnh hưởng thế nào đến một chủ nghĩa dân tộc mới như ông trình bày ở trên"
-- Tôi thiển nghĩ rằng giới lãnh đạo Việt Nam tự cho mình là vô địch về chủ nghĩa dân tộc, điều tai hại là nó bị đặt sai chỗ; và sau khi đổi mới, ta vừa tân trang chủ nghĩa đó cho hiện đại hơn để góp mặt với thế giới thì môi trường thế giới đã lại thay đổi. Việc tân trang đó coi như vô hiệu và càng tăng trưởng cao trong vài năm tới là càng sớm gặp loại vấn đề các lân bang đã thấy và đang muốn sửa. Giúp cho người dân thấy trước vẫn có lợi hơn và có tinh thần dân tộc hơn là đòi người dân phải chạy theo sự lãnh đạo của mình để đâm vào những bế tắc mà các nước khác đã gặp. Nói cho gọn thì “bàn tay vô hình” của thị trường có những lợi ích nhất định của nó, nhưng sẽ không có tác dụng lâu dài nếu gặp bàn chân thô bạo của chính quyền, cứ ngoan cố đẩy dân vào những chiến lược đã bế tắc.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Khi Sài Gòn thất thủ, cha của Bình Lý hòa cùng dòng người đi vào “đêm chôn dầu vượt biển.” để lại quê nhà người vợ và hai đứa con trai còn nhỏ. Sau gần 10 năm, cha và mẹ của anh đoàn tụ ở nước Mỹ. Bình chào đời trên xứ sở tự do, mang trên mình căn cứ người Mỹ gốc Việt thế hệ thứ hai. Đúng 50 năm của biến cố 30 Tháng Tư (1975 – 2025), chính anh và những người bạn trẻ khác trong nhóm Viet Place Collective, đã tranh đấu suốt hai năm để thuyết phục giới chức vùng DMV chuẩn thuận cho tên đường Saigon Blvd – Đại Lộ Sài Gòn hiện diện trên một đoạn đường Wilson Blvd thuộc Falls Church.
Mới đây một người bạn online gởi đến một video clip và bản chụp mấy trang trong cuốn Kỷ niệm sân khấu của MC Nguyễn Ngọc Ngạn, hỏi ý kiến tôi về cách ông này kiến giải thành ngữ “Phận con gái mười hai bến nước”. Trong clip -- cắt từ một sản phẩm Paris by Night -- ông Ngạn cho biết trong chương trình trước MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên hỏi ông ý nghĩa của thành ngữ “Phận con gái mười hai bến nước” và lúc đó ông “đoán” ra hai điều: về vần, từ “gái” liền vần với “mười hai” và, về nghĩa, “số 12 trùng với 12 tuổi Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.”
Ngay sau khi nhậm chức, tân Tổng thống Trump đã ký khoảng 100 sắc lệnh hành pháp để giải quyết nhiều vần đề cấp bách cho đất nước. Nhìn chung trong toàn cảnh, có nhiều nhận định tỏ ra dè dặt hơn khi cho rằng, một số sắc lệnh này có hiệu lực pháp lý tức thời, một số khác có lẽ chỉ là một màn trình diễn làm thoả lòng mong đợi của đa số cử tri và một số khác còn cần nhiều thời gian hơn nữa để cho các toà án tái thẩm nội dung. Tại sao các giải pháp này không hữu hiệu như Trump tuyên hứa với toàn dân? Sau đây là ba trường hợp điển hình để biện minh tại sao một kỷ nguyên hoàng kim chưa được khởi đầu...
Nhà nước CSVN đã có một cái nhìn bi quan về tình hình chống tham nhũng, lãng phí và tiêu cực khi bước vào năm 2025, một năm trước Đại hội đảng kỳ XIV để bầu Ban Chấp hành Trung ương nhiệm kỳ 2026-2030...
Thời Hoàng Kim (Golden Age) – khẩu hiệu mới của chính quyền Trump – hiện ra rõ nhất trong buổi lễ nhậm chức không như mong đợi của Trump và những cử tri ủng hộ. Ngồi ở hàng ghế đầu, vị trí xưa nay vốn thuộc về gia đình tổng thống, các cựu tổng thống, và những vị khách danh dự khác, là những tỷ phú giàu nhất thế giới. CEO Meta Mark Zuckerberg và vợ; CEO Amazon Jeff Bezos và hôn thê Lauren Sánchez, CEO Google Sundar Pichai và Elon Musk, người giàu nhất thế giới đã dựng “bệ phóng Space X” đưa Trump trở lại Tòa Bạch Ốc, đã soán chỗ của các tổng thống tiền nhiệm. Điều này đối lập hẳn với những phát ngôn tranh cử khi Trump luôn xem mình là một tổng thống đứng cùng tầng lớp trung lưu và lao động.
Nếu chúng ta, trong thị trường giải trí, từng một thời ướt át “tân cổ giao duyên” thì bây giờ người Mỹ, trong “thị trường chính trị”, như là biến thể mới nhất của nền chính trị quốc gia, đang khô khốc với sát khí “chăn lái giao duyên”. Nước Mỹ của thế kỷ 21, xem ra, đang đối mặt với nguy cơ tụt lùi về thế kỷ 19 của chủ nghĩa tư bản hoang dã và chủ nghĩa thực dân.
Ngày 20 tháng 1 năm 2025, lịch sử Hoa Kỳ lật qua một trang sử mới. Qua một thủ tục chuyển quyền hiến định, tổng thống đắc cử Donald Trump tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 47 và sẽ thay đổi một số chính sách cơ bản cho nhiệm kỳ sắp tới...
Đó là cuốn sổ thông hành vừa đóng con dấu bất tử cho nước Mỹ đi vào một kỷ nguyên vô pháp, siêu thực, bất chấp hiến pháp – kỷ nguyên của một tội phạm lên ngôi vua, sẵn sàng để đưa nước Mỹ quay ngược về thời đại bành trướng bờ cõi bằng quân đội và vũ lực. Tất cả bốn vụ án hình sự, dân sự của Donald Trump mở ra bằng những khẩu đại bác và kết thúc bằng những viên pháo xì hơi. Tất cả cơ quan luật pháp truy tố Trump với hàng loạt tội chứng, bằng chứng, đều bất lực, trong khi cơ quan duy nhất là Bộ Tư Pháp có quyền kết tội Trump thì đã không bao giờ thực hiện đúng cán cân công lý.
Ở trong giai đoạn nước Mỹ chia rẽ cùng cực như hiện nay, việc chuyển giao quyền lực tổng thống vào ngày 20/01/2025 hứa hẹn sẽ có nhiều thay đổi mang tính đối nghịch. Khi chính phủ chuyển sang nhiệm kỳ mới dưới sự lãnh đạo mới của tổng thống đắc cử Donald Trump, bối cảnh quản lý công nghệ thông tin tại Hoa Kỳ cũng sẽ đối mặt với nhiều sự thay đổi.
Cuộc bầu cử tổng thống Belarus năm 2020 bị ảnh hưởng bởi gian lận bầu cử tràn lan, cùng lúc với sự trấn áp dữ dội phe đối lập và đàn áp tàn bạo những người biểu tình phản đối kết quả. Tuyên bố chiến thắng với 80% số phiếu bầu của nhà độc tài Alexander Lukashenko đã gây tranh cãi và bị lên án rộng rãi, với Liên minh Âu châu và một số các quốc gia khác từ chối công nhận kết quả. Alexander Lukashenko đã nắm quyền từ năm 1994. Kể từ đó, tổ chức nhân quyền Belarus Viasna đã báo cáo hơn 50.000 người đã bị bắt vì lý do chính trị. Không có khả năng có thay đổi trong cuộc bầu cử sắp tới, dự kiến diễn ra vào ngày 26/01/2025. Theo hãng thông tấn nhà nước Belta vào tháng 11, Lukashenko đã cảnh báo có thể cắt hoàn toàn quyền truy cập internet trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2025 nếu nổ ra các cuộc biểu tình tương tự như năm 2020 .
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.