Hôm nay,  

Mùa Cảm Cúm 2013 Tại Bắc Mỹ

11/10/201300:00:00(Xem: 8735)
Cúm đã có từ ngàn xưa

412 năm trước Tây lịch, tổ sư ngành y học là Hippocrate đã từng mô tả một trận dịch bệnh biểu lộ bằng những triệu chứng tương tợ với bệnh cúm ngày nay.

Tại Bắc Mỹ, mùa Đông cũng là mùa cúm thường niên seasonal Influenza (flu). CDC cho biết cúm thường niên bắt đầu từ khoảng tháng 9 và có thể kéo dài tới tháng 5 của năm sau.

Năm nào cũng thế, lối tháng 9 tháng 10, giới trách nhiệm y tế đều có phổ biến thông cáo khuyên các cao niên trên 65, phụ nữ đang mang thai và trẻ em nên đi chích ngừa cúm.

Tháng 12 năm 2012 vừa qua,bệnh cúm có khuynh hướng gia tăng bất thường tại Bắc Mỹ. Theo CDC Hoa kỳ cho biết tác nhân gây bệnh cúm thường niên chủ yếu là virus đột biến Inflenza A(H3N2) Variant Virus.

H3N2 được xác định đầu tiên ở heo năm 2010 và khi virus đột biến truyền lây sang cho người thì gọi là virus đột biến "H3N2v" viruses.

Dự đoán tình hình mùa cúm thường niên 2013-14 tại Bắc Mỹ.

Ba nhóm virus thường hay gặp nhất là influenza(H1N1), Influenza A(H3N2) và Influenza B.

Theo khuyến cáo của Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO, mùa cúm 2013-14 vùng Bắc bán cầu sẽ sử dụng vaccin có chứa các loại virus sau đây:

- A/California/7/2009 (H1N1)pdm09 -like virus;

- A(H3N2) virus antigenically like the cell-propagated prototype virus A/Victoria/361/2011;

- B/Massachusetts /2/2012-like virus.

- B/Brisbane/6/2008-like virus.

As per the World Health Organization (WHO), all seasonal influenza vaccines for 2013/14 in the northern hemisphere contain:

A/California/7/2009 (H1N1)pdm09-like virus;

A(H3N2) virus antigenically like the cell-propagated prototype virus A/Victoria/361/2011; B/Massachusetts/2/2012-like virus.

B/Brisbane/6/2008-like virus.
http://www.gov.mb.ca/health/flu/docs/imm_programplan.pdf
cam-cum-thuoc-tay-resized
Từ thuốc Tây tới giải cảm.

Virus cúm Influenza virus

Virus cúm thuộc ARN, họ Orthomyxoviridae, chi Influenza. Căn cứ trên cấu trúc của nucleoprotéine mà người ta chia virus cúm ra làm 3 loại: A,B, C.

Influenza A quan trọng nhất vì nó có thể gây bệnh cúm ở thú vật và ở người cũng như có thể gây ra các bệnh đại dịch (epidémie):

- Grippe asiatique (1958-59) H2N2, Grippe de HongKong (68-70) H3N2, Grippe russe (77-78) H1N1, Grippe aviaire (1997-2009) H5N1.

- và có khi là những trận đại dịch toàn cầu (pandemie) chẳng hạn như đại dịch (Spanish flu) năm 1918-1919.

Virus Influenza A có khả năng đột biến (mutation), thay đổi cấu trúc sinh kháng và biến đổi không chừng. Bởi lý do nầy việc sản xuất ra thuốc chủng ngừa (vaccin) gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Một loại vaccin chỉ hữu hiệu để phòng ngừa một loại virus đặc thù nào đó mà thôi.

Virus Influenza được phân loại bằng cách nào?

Ngày nay các nhà khoa học phân loại virus influenza A qua cách xác định chất sinh kháng (antigène) glycoprotéine bề mặt của virus (glycoprotéine de surface). Các chất sinh kháng nầy được chia ra làm hai nhóm chánh:

- Những hémagglutinines (HA)

- Những neuraminidases (NA)

Có tất cả 14 HA được đánh số từ H1 đến H14 và có 9NA được đánh số từ N1 đến N9.

Virus bệnh cúm gia cầm tại Á Châu là sự kết hợp giữa H5 và N1 để cho ra một nhóm phụ hay subtype, đó là virus Influenza A /H5N1.

HA rất cần thiết vì nó giúp virus bám vào tế bào tiếp nhận của con bệnh (người hay thú vật) trong những giây phút đầu tiên của sự lây nhiễm. Ngay khi đó cơ thể sẽ phản ứng lại sự xâm nhập của virus bằng cách ra lệnh cho hệ miễn dịch sản xuất ra kháng thể anticorps để chống lại các chất sinh kháng glycoprotéines của virus. Đây là nguyên tắc căn bản của miễn dịch học.

Ngoài hai loại sinh kháng H và N ra thì cũng còn một loại protéine khác nữa. Đó là nucléoprotéine (NP) giúp các nhà nghiên cứu xếp loại virus cúm ra thành Influenza A, Influenza B, và Influenza C.

NP được xem là protéine đặt thù (spécficité) của virus đối với một loài vật nhất định nào đó.

Hiện Tượng Di Chuyển và Hiện Tượng Hoán Chuyển Sinh Kháng (Antigenic Drift & Antigenic Shift).

Tính đa dạng của virus Influenza A được biểu hiện qua hai hiện tượng Antigenic drift và hiện tượng Antigenic shift.

- Hiện tượng di chuyển sinh kháng (antigenic drift): xảy ra thường xuyên qua hiện tượng đột biến ngẩu nhiên lúc virus tăng số (replication). Sự đột biến của virus thường được biểu lộ ra bằng sự thay đổi vị trí acid amin của chất sinh kháng HA nào đó. Nhờ vậy virus thoát khỏi sự nhận diện của hệ miễn dịch của con bệnh.

Chính kháng thể hóa giải được sản xuất ra khi vừa bị lây nhiễm đã làm nẩy sinh ra hiện tượng di chuyển của phần sinh kháng HA trên virus đi nơi khác. Người ta gọi đó là antigenic drift.

Hiện tượng Antigenic drift xuất hiện trung bình mỗi hai năm một lần và làm phát sinh ra những dịch bệnh có giới hạn trong không gian và trong thời gian.

- Hiện tượng hoán chuyển sinh kháng (Antigenic Shift):ngược lại với antigenic drift, antigenic shift vẫn còn là một hiện tượng rất hiếm hoi, xảy ra cứ mỗi 10-20 năm một lần.

Chính antigenic shift quyết định sự bộc phát ra của những cơn đại dịch toàn cầuThí dụ điển hình là đại dịch cúm 1918-19 mà người ta thường gọi là Spanish Flu, Grippe Espagnole do virus cúm heo A /H1N1 đã giết hại hằng mấy chục triệu người trên thế giới vào thuở đó.

Antigenic shift thật ra là sự kết hợp về mặt di truyền giữa 2 nhóm virus influenza khác nhau nhưng cả hai đều nằm chung trong cùng một tế bào tiếp nhận của vật chủ (host cell). Sự kết hợp nói trên có thể làm phát sinh ra 256 cách phối hợp di truyền khác nhau.

Đó là tất cả sự phức tạp và nhiệm mầu của tạo hóa để giúp vào sự sống còn và tồn tại của một sinh vật, ở đây là virus cúm.

Virus Influenza A được thấy ở nhiều loại động vật khác nhau.

Virus cúm được thấy ở gia cầm, chim chốc, người, heo, ngựa và một số loài hữu nhũ sống dưới biển chẳng hạn như cá voi. Có thể nói virus Influenza ở các loài vật nầy đều có nguồn gốc từ virus Influenza gốc gia cầm mà ra cả.

Ổ chứa tự nhiên hay vật chủ (réservoir, carrier) của virus Influenza A là thủy cầm (waterfowl) và đặc biệt là loài vịt trời. Các cuộc nghiên cứu và theo dõi các loài thủy cầm từ trước tới nay đều cho thấy có sự hiện diện của các subtypes như Influenza A/ H1-14 và N1-9.


Virus Influenza nhân số (replication) trong vịt trời và theo phân ra ngoài để lây nhiễm một vùng môi sinhrộng lớn. Thói quen thường di chuyển của loài vịt trời là nguyên nhân chánh làm lây lan bệnh cúm đi khắp thế giới.

Virus Influenza có vẻ thích ứng hoàn toàn ở loài chim. Tất cả virus Influenza ở heo đều có nguồn gốc từ virus Influenza gia cầm.

Virus Influenza ở loài ngựa và ở loài cá voi cũng có nguồn gốc từ virus cúm gia cầm mà ra.

Tuy nhiên virus cúm ở ngưạ và ở cá voi lại không có khả năng đi lây nhiễm sang cho các loài vật khác. Khoa học chưa có câu giải thích về hiện tượng nầy mà chỉ có thể đưa ra giả thuyết đây là một ngõ cụt dịch tể học (cul de sac épidémiologique, epidemiological dead end).
cam-cum-giai-cam-resized
Từ thuốc Tây tới giải cảm.

Heo rất nhạy cảm với virus H1N1 và H3N2

Heo được xem như ổ trung gian hay " thuyền pha trộn " (mixing vessel), nơi đó các di thể (gene) từ những virus cúm khác nhau có thể pha trộn và phát triển để tạo ra những virus mới có tiềm năng lây nhiễm cho người. Đây là trường hợp dịch cúm heo Mexico năm 2009vừa qua.

Heo có thể truyền virus cúm của chúng cho người, cho vịt, cho gà Tây...

Qua biến cố dịch cúm heo ở Mexico tháng tư 2009, người ta e sợ rằng virus Influenza A/H1N1 là một virus đột biến có pha trộn các phân tử ADN của virus gia cầm, heo và người. Virus đột biến (mutant) đã phá lệ và đốt giai đoạn để lây nhiễm sang cho người đồng thời cũng có khả năng tạo tính lây nhiễm từ người nầy sang người nọ với nhau.

Đây là một ca mới lạ ít thấy xảy ra trong điều kiện bệnh cúm heo bình thường.

Tháng 6/2009 cơ quan Y Tế Quốc tế ban bố tình trạng đại dịch toàn cầu (pandemy) A/H1N1.

Cảm cúm: giống nhau mà khác nhau

Triệu chứng cảm và cúm thường hơi giống nhau và cả hai đều do virus gây ra. Các loại siêu vi cảm cúm thường hoạt động mạnh vào mùa đông. Thường thì triệu chứng cảm nhẹ hơn triệu chứng cúm.

Cảm (rhume, common cold) do cả trăm loại virus gây ra, tiêu biểu nhứt là Rhinovirus trong khi cúm (grippe, influenza, flu) chỉ do rất ít loại virus gây ra mà thôi, vì lẽ nầy nên người ta chỉ có thể làm vaccin ngừa cúm chớ không thể nào làm vaccin ngừa cảm được.

Các thuốc cảm cúm thông thường

Phần đông chúng ta thường tự chữa lấy bằng những thứ thuốc có sẵn trong nhà như aspirin hoặc tylénol chẳng hạn.

Có người còn phối hợp thêm một vài phương pháp ngoại khoa quốc hồn quốc túy Việt Nam như đánh dầu cù là, dầu gió xanh, dầu khuynh diệp, thoa dầu dưới lòng hai bàn chân, cạo gió, bắt gió, giác hơi vv…cho mau hết bệnh. Đây là những chiêu mà người gõ thích nhứt mỗi khi bị ớn lạnh đau nhức mình mẩy.

Nói chung, các thuốc thông thường để chữa cảm cúm đều có thể mua một cách tự do, không cần phải có toa bác sĩ. Không phải vì thế mà chúng không có phản ứng phụ. Trước khi mua, bạn nên tham khảo với dược sĩ nếu bạn có vấn đề đặc biệt như đang bị bệnh tiểu đường, cao máu, có thai, hoặc mua cho cháu bé uống. Cũng nên cho dược sĩ biết nếu bạn đang sử dụng một loại thuốc thiên nhiên nào đó mục đích để phòng tránh sự tương tác interaction có thể có giữa các loại thuốc với nhau.

Kết luận

Cảm cúm do virus gây ra cho nên không cần phải uống thuốc kháng sinh vô ích.

Tất cả các loại thuốc trị cảm cúm chỉ có công dụng giúp cho ta bớt đau nhức, dễ chịu mà thôi,và sau một thời gian năm mười ngày, thường là sẽ tự nhiên hết bệnh.Tuy nói vậy, nhưng cũng phải đề phòng các biến chứng, như viêm phổi chẳng hạn có thể rất nguy hiểm nhất là đối với trẻ em, các cụ lớn tuổi cũng như đối vớicác người mà hệ miễn dịch đã bị suy yếu sẵn vì bệnh tật nào đó.

Trường hợp có nóng sốt cao, hoặc triệu chứng có mòi gia tăng thì cần đi khám bác sĩ ngay lập tức.

Nghỉ ngơi, tịnh dưỡng, uống nhiều nước, ăn cam, ăn cháo gà thật nóng bỏ nhiều hành, gừng, nhiều tiêu, cạo gió, bắt gió, và thoa dầu khắp lưng, ngực và dưới hai bàn chân, giác hơi, làm massage đấm bóp, nếu có thể chơi luôn một nồi nước xông (mua trong tiệm thuốc Bắc) trùm mền kín cho ra mồ hôi như tắm cam đoan đã lắm và bạn sẽ khỏe lại ngay lập tức.

Đó là cách chữa trị theo lối kết hợp Ta Tây một nhà.

Tất cả đều là những phương cách giúp chúng ta mau lành bệnh. Nếu bạn vừa mới bắt đầu cảm thấy ớn ớn trong người, hơi đau cổ họng và ho hen sụt sịt thì nên nhớ đi ngủ riêng một mình ở chỗ khác cho yên, để tránh lây cho bà xã và cũng để họ khỏi phải chịu cực hình bị bắt buộc nghe mình sũa suốt đêm bên tai.

Tại Hoa Kỳ và Canada, mỗi năm giới y tế thường khuyến cáo dân chúng nên đi chích ngừa cúm vào mùa thu trước khi mùa dông đến.

Đây là cách phòng ngừa hữu hiệu nhất.

Thiên hạ hay nói một cách bông đùa rằng đối với cúmnếu không có biến chứng, thông thường nếu uống thuốc thì trong một tuần lễ hay hơn thì bệnh sẽ dứt, còn nếu không có uống thuốc men gì ráo thì cao tay lắm trong vòng 7-10 ngày bệnh cũng tự nhiên khỏi mà thôi.

Cần nên nhớ là bệnh cúm rất dễ lây không những qua không khí mà cũng thường hay truyền từ người nầy qua người khác qua cái bắt tay thân thiện…

Vậy sát trùng tay và rửa tay thường xuyên bằng savon là điều cần phải làm để ngừa cảm cúm./.

Tham khảo:

What You Should Know for the 2013-2014 Influenza Season (USA)
http://www.cdc.gov/flu/about/season/flu-season-2013-2014.htm

- Cold versus Flu (CDC)
http://www.cdc.gov/flu/about/qa/coldflu.htm

2013/14 Seasonal Influenza Immunization Program Plan(Canada)
http://www.gov.mb.ca/health/flu/docs/imm_programplan.pdf

Antigenic shift
http://en.wikipedia.org/wiki/Antigenic_shift

- Nguyễn Thuợng Chánh - Nguyễn Ngọc Lan

- Rửa tay để bảo vệ sức khỏe
http://www.advite.com/ruatay.htm

- Tự chữa lấy bệnh cảm cúm
http://www.advite.com/tuchuabenhcamcum.htm

- Cách sử dụng thuốc
http://www.advite.com/cachsudungthuoc.htm

- Tâm thư của heo gởi cho người
http://www.advite.com/TamThuCuaHeoGoiChoNguoi.htm

- Webster RG, Bean WJ,Gorman OJ. Evolution and Ecology of Influenza A viruses, Microbiologie Rev. 1992; 56:152-179
http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1579108

- Josée Daigneault, DMV, M. Sc. Revuede l"influenza chez le porc et état de la situation au Québec. CRAAQ
http://www.agrireseau.qc.ca/porc/documents/Daigneault_Josee.pdf

Montreal, Oct 2013

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Tạp chí Consumer Reports vừa công bố phát hiện rằng nhựa vẫn hiện diện “rộng rãi” trong thực phẩm bất chấp các nguy hại về sức khỏe, và kêu gọi các cơ quan chức trách đánh giá lại mức độ an toàn của nhựa khi tiếp xúc với thực phẩm trong quá trình sản xuất. Tổ chức vô vụ lợi này cho biết rằng 84 trong số 85 mẫu thực phẩm ở siêu thị và thức ăn nhanh mà họ vừa kiểm tra gần đây có chứa “chất hóa dẻo” (plasticizers) được gọi là phthalates, một loại hóa chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn.
Cách đâu 30-40 năm, lúc người tỵ nạn Việt mới định cư ở Mỹ và bắt đầu làm quen với các tập tục kể những tập quán về y tế ở Mỹ, trong y giới Mỹ cũng như các nước tây phương khác đang tranh cãi rất nhiều về chỉ định có nên cắt bao quy đầu theo thông lệ (routine circumcision) cho trẻ em sơ sinh hay không. Thuật ngữ “circumcision”, gốc latinh “circumcisio”. Từ "cắt bao quy đầu" xuất phát từ các từ Latin circum và caedo (circum: “xung quanh”; caedo: “tôi cắt”), có nghĩa đen là "cắt xung quanh". Từ epitome trong tiếng Hy Lạp cũng có nguồn gốc từ gốc có nghĩa là "cắt" hoặc "vết mổ". Trong tiếng Hebrew (Do Thái), phép cắt bao quy đầu được gọi là “peritomy”, xuất phát từ tiếng Hy Lạp peritomy.
Người ta vẫn thường nói “You are what you eat” (Những gì bạn ăn thể hiện bạn là ai). Nhưng có lẽ sẽ đúng hơn khi nói rằng những gì chúng ta ăn sẽ khiến chúng ta có những cảm xúc gì, bởi vì những tiến bộ trong lĩnh vực dinh dưỡng tâm thần học cho thấy chế độ dinh dưỡng đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của chúng ta.
Đặng Đình Bách: Tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết cộng đồng và câu chuyện đau buồn về sự bất công cần phải khắc phục tại Việt Nam...
Việc thuốc trị béo phì Zepbound mới được thông qua đã bổ sung thêm lựa chọn cho các loại thuốc giúp giảm cân, nhưng nó cũng đi kèm với những thách thức về chi phí và khả năng tiếp cận, giống như các loại thuốc giảm cân khác trong cùng nhóm. Các loại thuốc trong nhóm này gồm chất chủ vận (agonists), hay chất bắt chước các hormone tự nhiên trong ruột có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cơ thể và tín hiệu đói phát ra từ não. Nhưng các loại thuốc đã được chuẩn thuận, các phiên bản tổng hợp của các hormone này, là những phân tử có kích thước lớn nên quá trình sản xuất khá tốn kém và mất thời gian. Điều này khiến cho thuốc có giá cả đắt đỏ và ngày càng khan hiếm
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.