Hôm nay,  

Bài Ii: Vn Đã Khai Quật 80 Lăng Mộ Cổ Thấy Nhiều Xác Ướp Vua Chúa

5/16/199900:00:00(View: 9374)
Vào đầu năm 1964, người dân Hà Nội đổ xô đến Bảo tàng Lịch sử để xem một xác ướp cổ được đưa từ huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa về. Đó là thi hài Vua Lê Dụ Tông, một ông vua bù nhìn của nhà Lê.
Hồi tháng 2-1958, trong khi phát hoang làm vườn tại "Rừng cấm" ở làng Bái Trạch, một nông dân đã cuốc phải quách mộ và thấy bên trong có một cỗ quan tài sơn son tỏa mùi thơm. Nghi đây là mộ một ông vua nên người ta cho trát lại, giao cho xã coi sóc, mãi 8 năm sau mới khai quật. Kể từ đó đến nay người ta đã bắt gặp loại mộ hợp chất này trên 15 tỉnh thành của cả nước. Hơn 80 ngôi mộ xác uớp đã được khai quật, bao gồm đủ loại người giàu sang trong xã hội thời Lê từ vua chúa đến quan lại, cung tần, mỹ nữ... Theo nhà khảo cổ học Đỗ Văn Ninh thì kiểu táng thức này vào thời đó "thịnh hành'' như một thứ "mốt'' vậy. Ngôi mộ có niên đại sớm nhất được khai quật là mộ bà Dương Thị Bá, vợ Vua Lê Thái Tông (1423-1442) tại thôn Nhân Giả, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Muộn nhất là một số mộ chôn hồi đầu thế kỷ này tại TP. HCM và Hà Nội. Nhưng số lượng mộ xác ướp nhiều nhất và xác được bảo quản tốt nhất vẫn là các ngôi mộ có niên đại trong vòng ba thế kỷ XVI, XVII, XVIII. Xác ướp có địa vị cao nhất lúc sinh thời là Vua Lê Dụ Tông (1679-1731), mất năm 52 tuổi.
Sống cách chúng ta chừng 5.000 năm, ở xứ sở của những kim tự tháp thì tục ướp xác đã được các cư dân Ai Cập phát triển lên thành một nghệ thuật và có những người thợ chuyên làm nghề này. Nhưng có lẽ không nơi nào trên thế giới này lại có cách ướp xác độc đáo như ở Việt Nam. Tôi tin chắc một điều rằng những chuyên gia ướp xác của Ai Cập cổ đại hay Nga sẽ phục sát đất các "đồng nghiệp" người Việt xưa kia khi biết rằng họ hoàn toàn không cần tới công đoạn phẫu thuật loại bỏ lục phủ ngũ tạng và não mà thi hài vẫn không bị hủy hoại... Vậy đâu là bí quyết của phương pháp ướp xác này"
Theo ông Đào Tử Khải thì trước hết, khi người bệnh hấp hối, người ta cho uống một thang thuốc "hồi dương" trong đó vị chủ là quế nhằm duy trì nhiệt độ cần thiết trong xác chết một thời gian, mặt khác nó còn có tác dụng hạn chế sự phá hoại của vi khuẩn. Sau khi người nọ tắt thở, tang gia bèn dùng nước ngũ vị hương tắm rửa sạch sẽ thi hài. Đây là một nghi thức có tính tôn giáo gọi là lễ Thọ Mai, hàm ý tẩy uế cho người chết lúc sang thế giới khác, đồng thời xét về mặt khoa học, nước thơm sẽ góp phần ngăn chặn vi trùng tấn công. Việc tiếp theo là khâm liệm và nhập quan. Quan tài là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong mộ xác ướp. Nó phải được đóng bằng thứ gỗ đặc biệt có tên "Ngọc am", một loại cây thuộc họ thông chỉ mọc ở vùng cao như Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Nghệ An. Gỗ Ngọc am chứa nhiều dầu và rất thơm, có khả năng sát trùng tốt. Cỗ áo quan được ghép bằng loại mộng đuôi én rất chặt và khít. Vách trong của áo quan được củng cố thêm một lớp vách mỏng bằng gỗ dổi hoặc vàng tâm dán bằng sơn sống. Đáy quan tài cấu tạo thành hai lớp, cách nhau một lớp ván mỏng trổ 7 lỗ, bố trí theo hình chùm sao Bắc Đẩu. Theo quan niệm của Lão giáo thì sao Bắc Đẩu có thể trấn yên vong hồn người chết khỏi bị tà ma quấy nhiễu. Nhưng việc trổ 7 lỗ còn đáp ứng một yêu cầu thực dụng nhằm thoát nước do thi hài tiết ra từ tầng trên xuống tầng dưới.
Trước lúc nhập quan, đáy quan tài được rải một lớp gạo rang hoặc chè dày chừng 20cm, bên trên lại thêm một lớp giấy bản hoặc bấc dấu dày khoảng 5cm rồi mới đặt tấm thất tinh lên trên. Gạo rang và giấy có nhiệm vụ hút ẩm. Trên tấm thất tinh là thi hài người chết được liệm trong chăn (khâm) và hai tấm liệm (đại liệm và tiểu liệm), rồi được chèn chặt bằng những chiếc gối nhằm cố định hướng nằm và xua tối đa lượng không khí có lợi cho sự phát triển của các loài vi sinh vật. Cuối cùng, người ta đổ dầu thông vào, đậy ván thiên lại và gắn kín bằng sơn sống trộn lẫn mạt cưa. Bao bọc ngoài quan tài là lớp quách gỗ. Ôm khít lấy quách gỗ là lớp quách hợp chất được đúc bằng vôi, cát, mật, nước niệt có thể trộn lẫn dầu thơm tạo nên một bức tường thành hết sức dai và chắc chắn, đồng thời không ngấm nước. Gò mộ được đắp đất cao dày luôn giữ cho lòng mộ một nhiệt độ vừa phải.
Tóm lại, các nghệ nhân xưa đã rất "cao tay" tạo ra một cấu trúc môi trường khử trùng, tiêu ẩm tốt, đồng thời cách ly hoàn toàn môi trường này khỏi sự xâm nhập của vi khuẩn bên ngoài bằng nhiều tầng lớp vững chãi nên các thứ bên trong được bảo quản hầu như nguyên vẹn. Và "thế giới" này chỉ bị hư hại khi có một yếu tố cấu thành nào đó bị phá vỡ mà thôi. Suốt mấy mươi năm lăn lộn trong nghề, nhiều khi không dám nói thật với vợ con về công việc của mình, nhà khảo cổ học Đỗ Văn Ninh không nhớ nổi mình đã khai quật bao nhiêu ngôi mộ. Ông kể, một lần đoàn công tác của ông đang khảo sát một ngôi mộ Hán ở Cổ Loa, bỗng đâu một toán người hầm hầm vác gậy gộc chạy ra đòi "làm việc" các nhà khoa học vì tội dám "đào mả cụ tổ" của họ! Mặc cho các nhà khảo cổ học ra sức chứng minh đó là một ngôi mộ Tàu chính cống, thậm chí chìa cả giấy phép cho khai quật do chính quyền cấp, đám người giận dữ nọ vẫn bỏ ngoài tai. Sau cả nửa ngày vận hết mọi kiến thức khoa học để giải thích, họ ậm ừ có vẻ nghe ra, vòng vèo mãi nhưng rốt cuộc ông già trưởng họ kết luận rằng gì thì gì đó vẫn là "mộ cụ tổ chúng tôi" và kẻ nào dù to gan lớn mật tới đâu muốn động vào cũng cứ giờ hồn! Tuy nhiên, kỷ niệm sâu đậm nhất trong nghiệp khảo cổ đối với ông Ninh lại là cuộc truy tìm thân thế chủ nhân ngôi mộ xác ướp ở Vân Cát (Nam Hà) hồi tháng 11-1968.

Ngôi mộ này cũng được phát hiện một cách hết sức ngẫu nhiên khi dân xã Kim Thái, huyện Vụ Bản phá gò lấy đất đắp đường. Dạo nọ, người ta nghe phong thanh lũ lượt kéo nhau tới xem đông chẳng khác nào trẩy hội Phủ Giày. Để tránh những con mắt tò mò, đội khai quật do ông Ninh chủ trì đã phải tiến hành mở quách vào ban đêm, dưới ánh đèn măng xông và trong vòng bảo vệ chặt chẽ của dân quân địa phương. Người nằm trong là một cụ già khoảng trên dưới 60 tuổi, xác còn nguyên vẹn, vẫn mềm, da toàn thân trắng, thậm chí các khớp xương còn cử động một cách dễ dàng... Không kể 3 tấm chăn gấm cùng đại liệm, tiểu liệm, trên mình người chết mặc tới 18 chiếc váy lụa, 35 chiếc áo thụng dài bằng gấm và lụa, xung quanh chèn tới 40 chiếc gối các loại. Ngoài ra còn vô số vật dụng tinh xảo khác như khăn, tràng hạt, quạt, kinh đại tạng, túi trầu bằng gấm thêu kim tuyến... Tấm minh tinh bằng gấm dán một hàng chữ Hán: Đặng thượng phụ y phu nhân Phạm Thị Nguyên Chân, giáo hùng tuệ đức tôn linh cữu (viết theo lối chữ triện rất khó xem, ông Ninh phải mất đúng 4 ngày mới đọc được và đoán ra chữ cuối bị mủn nát là chữ "cửu"). Ông bảo: "Ngay trong đêm đó, ông Đỗ Xuân Hợp cho xe commăngca về đưa xác ướp đến Viện Pasteur ở Hà Nội. Sáng hôm sau tôi ra quán nước bên đường cách đó chỉ độ 300 mét thì tình cờ được nghe bà chủ quán thao thao bất tuyệt kể với khách rằng đó là mộ một bà tiên đẹp tuyệt trần, vừa mở quan tài đã bay đi mất mang theo không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu!''.
Vậy Phạm Thị Nguyên Chân là ai" Câu hỏi này thực sự khởi đầu cho một trong những câu chuyện kỳ thú nhất của ngành Khảo cổ Việt Nam. Dựa vào niên đại của những đồng tiền phạm hàm (tiền đồng được bỏ vào miệng người quá cố khi mất) bao gồm một đồng "Khang Hy thông bảo" và hai đồng "Hồng Hóa thông bảo", ông Ninh khẳng định rằng, giới hạn sớm nhất của ngôi mộ không thể vượt trước năm 1678. Mặc khác, mấy chữ "Đặng thượng phụ" khiến ông suy luận đây có thể là mộ vợ của một vị quan to họ Đặng thời Hậu Lê. Nghĩ vậy ông bèn mày mò tìm trong cuốn Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú thì thấy một dòng họ Đặng "hơn 200 năm vinh hoa rực rỡ, hơn cả họ các công thần" bắt đầu từ Nghĩa Quận công Đặng Huấn trở về sau có tới hàng chục vị quận công và quan to gánh vác trọng trách của triều Lê. Nếu loại trừ những người qua đời đã lâu trước năm 1678 rồi sàng lọc tiếp những người không có liên quan tới vùng Sơn Nam (nơi chôn Phạm Thị Nguyên Chân) thì chỉ còn lại Đặng Đình Giám, Đặng Tiến Lân và Đặng Đình Tướng, nhưng hai ông Lân và Giám đều không tham dự triều chính và lẽ đương nhiên vị "thượng phu" kia chỉ có thể là Đặng Đình Tướng.
Vẫn chưa thỏa mãn, nhà khảo cổ học Đỗ Văn Ninh hì lục lục lọi trong đống tàng thư và tìm được cuốn Đặng gia thế phả ký nói về một gia tộc lớn ở Trúc Sơn, Hà Tây, từng vang danh khắp nước: "Bao giờ núi Trúc hết cây, sông Ba Thá hết nước, họ Đặng này hết quan". Và mọi sự trở nên rõ như ban ngày khi "cảo thơm lần giở". Đặng Đình Tướng tên thật là Đặng Thuy, tự là Đình Tướng, hiệu Trúc Trai còn gọi là Trúc Ông, người làng Lương Xá, huyện Chương Đức. Ông sinh năm 1649, đỗ đồng tiến sĩ năm 1670, được bổ chức Phó sứ cống Thanh năm 1697, Bồi tụng tả thị lang bộ lại năm 1705 và được phong tước nam. Là người văn võ song toàn nên sau đó Đặng Đình Tướng được cử giữ chức trấn thủ Sơn Nam. Ông được Chúa Trịnh tấn phong tước ứng quận công, tham dự triều chính, lên đến quốc lão rồi về hưu.
Đến năm 1730, ông lại được Trịnh Cương vời ra giúp nước, phong Đại tư mã và về hưu lần hai năm đã ngoài 80 tuổi. Đặng Đình Tướng qua đời năm 1735, được tặng đại tư không, phong chức thần. Gia phả còn chép rõ ông có hai vợ: bà cả là Thái phu nhân Bùi Quí Thị, húy Khang, thụy Từ Y; bà hai húy Đằng (Nguyên Chấn được đoán định là tên thụy đặt khi mất)... Điều hết sức thú vị là sau đó các nhà khảo cổ Việt Nam lại tiếp tục tìm được hai ngôi mộ xác ướp của ứng quận công Đặng Đình Tướng ở Vĩnh Xương, Mỹ Đức, Hà Tây và của vợ cả, bà Bùi Thị Khang ở Thượng Lâm, cũng tại Mỹ Đức, Hà Tây. Và một điều đáng lưu ý khác là tất cả các bậc vua chúa quan lại ấy khi chết chỉ mang theo một chiếc quạt, một túi trầu cau, túi đựng răng và móng tay rụng và một cuốn kinh Phật... mà thôi.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.