Hôm nay,  

Hồ Hữu Thủ - Người Đi Tìm Chân Tướng Sự Vật

26/06/202419:25:00(Xem: 3314)




Nguyen Huu Thu

 
 
Trong một lần trò chuyện mới đây, sau nhiều năm không gặp, Hồ Hữu Thủ nói đại ý: “Tôi đã đọc được nơi một ông thầy chùa rằng, từ ý tưởng này đến ý tưởng kia luôn có một khoảng hở. Tôi muốn kéo giãn cái khoảng hở ấy rộng ra, càng rộng càng tốt, vì đấy sẽ là nơi tôi an trú. Đấy cũng là nơi mà sự sáng tạo của tôi được định hình sự sống.”

Tôi không hề bất ngờ. Có vẻ như Hồ Hữu Thủ vẫn đắm chìm vào những suy tưởng sáng tạo như thế, vào thiền học như thế. Hồ Hữu Thủ là một trong số ít những họa sĩ tôi biết không ngừng có những suy tư triết học cho cuộc sống cũng như con đường sáng tạo của mình và hơn thế, biết diễn đạt nó một cách mạch lạc.

Hồ Hữu Thủ gốc người Quỳnh Lưu, Nghệ An nhưng được sinh ra tại Thủ Dầu Một (Bình Dương) năm 1940. Tốt nghiệp trường Mỹ nghệ Thực hành Thủ Dầu Một năm 1959. Bình Dương cũng là nơi sản sinh ra các làng nghề làm tranh sơn mài rất nổi tiếng. Có lẽ vì thế, ngoài sơn dầu, Hồ Hữu Thủ cũng rất sở trường về tranh sơn mài, một nghệ thuật mà ông muốn lưu truyền như truyền thống. Chính Hồ Hữu Thủ cũng đã mạnh dạn gọi tranh sơn mài của ông là nghệ thuật sơn ta hay sơn Phú Thọ. Sự khác biệt này không chỉ ở chất liệu, mà còn là phương pháp. Thay vì mài toàn bộ bức tranh, Hồ Hữu Thủ chọn giải pháp giữ lại các mảng thô không mài, để tạo hiệu ứng nghệ thuật. Có phải đây là không gian “an trú” của ông trong các khoảng hở giữa các ý tưởng?  


Ho Huu Thu tranh 1

Hồ Hữu Thủ cũng nói, bản chất sự vật là bất khả tri kiến. Vì thế cái sự vật mà ta vẽ không phải là sự vật mà nó vốn là. Hơn nữa, thế giới của chúng ta là một thế giới luôn biến động. Cái mà chúng ta vừa lưu giữ đã không còn tồn tại. Vậy thì, vẽ có phải là nắm bắt thực tại không? Mà làm sao nắm bắt? Có thể đây chính là lý do tồn tại của nghệ thuật trừu tượng mà Hồ Hữu Thủ vẫn theo đuổi bên cạnh những tác phẩm biểu hình.

Tuy nhiên, giữa những suy tư sáng tạo và thực hành nghệ thuật lại là một khoảng cách dường như bất khả tiệm cận. Từ ý muốn kéo giãn khe hở giữa các ý tưởng đến thực hành nghệ thuật như cách triệt tiêu khoảng cách của suy tưởng với tác phẩm là tài năng nghệ sĩ. Sự bất toàn xuất hiện và trở nên tất yếu nhưng cũng chính nó, sự bất toàn thôi thúc ý thức sáng tạo. Cũng vì thế, hành trình của sáng tạo nghệ thuật là miên viễn. 

Ở đây, chúng ta đã có thể chứng kiến một cụ năm nay 84 tuổi vẫn miệt mài vẽ. Vẫn tươi mới và ảo diệu sắc màu. Không phải vì Hồ Hữu Thủ thường xuyên tập luyện công phu “suối nguồn tươi trẻ” mà cái đẹp của sự sống lôi cuốn, chiếm ngự ông.

Hồ Hữu Thủ cùng với Nguyễn Lâm, Nguyễn Trung của Hội Họa sĩ Trẻ trước 1975 còn sót lại ở Sài Gòn, họ vẫn sung sức lao động nghệ thuật và tranh của họ vẫn thuộc loại đẳng cấp để sưu tập. Họ thuộc về một thế hệ vàng của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bất kể ở Mỹ như Trịnh Cung, Nguyên Khai, Đinh Cường… hay còn lại trong nước, còn sống hay đã chết, tranh của nhóm Hội Họa sĩ Trẻ vẫn có những giá trị mang dấu ấn lịch sử. Cho dù tranh của họ rất ít tính thời sự, nhưng cái đẹp được tìm thấy trong tác phẩm của họ lại rất biểu trưng cho tính thời đại mà họ sống. Đó là cái đẹp phía sau của chết chóc, của chiến tranh. Cái đẹp của hòa bình, của sự chan hòa trong vũ trụ. Cái mà con người ngưỡng vọng như ý nghĩa nhân sinh.

Với riêng Hồ Hữu Thủ, tôi còn thấy một phong cách trầm mặc cả trong và ngoài tác phẩm của ông giữa một thế giới xô bồ. Cho dù tranh của ông không thiếu những cô gái đẹp, chất thị hiếu thị trường hiển nhiên nhưng vẫn luôn mơ màng về một cõi nguyên sơ của căn tính hiện thể. Sự thuần khiết nhất nguyên trong vô thức.

Hôm tôi gặp Hồ Hữu Thủ cũng là dịp ra tập sách tranh mới của ông, tổng kết sự nghiệp nghệ thuật. Ông cũng cho biết đang chuẩn bị khánh thành một bảo tàng Hồ Hữu Thủ bên quận 2. Nói thế, không có nghĩa là con đường sáng tạo của Hồ Hữu Thủ đã dừng lại hay đóng khung. Đó chỉ là một chặng đường. Số phận của nghệ sĩ không phải là kẻ ngồi đếm những thành tựu, mà tạo ra thành tựu, mãi mãi đi tới. Mãi mãi truy tìm cái chân tướng sự vật. Cho dù thân xác có gục xuống thì nghệ thuật của anh ta vẫn mãi mãi lên đường. Mãi mãi khai mở. Tôi nghĩ thế.

Nguyễn Viện
(Saigon 21/6/2024)  


Ho Huu thu tranh 2

Ho Huu Thu tranh 3

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hải đảo Ga Lang vào thời điểm 1978. Hải âu bay rợp trời. Cơm xấy, cá khô, đậu hộp và là những món ăn quen thuộc của người việt tị nạn trên đảo. Cứ đến giờ là mọi người xếp hàng đi ăn, có khi không phải là đói mà vì cả thói quen, kể cả thói quen chờ đợi, chờ đợi được làm giấy tờ. Chờ đợi được ra đi đến một quốc gia nào đó… Mỹ, Pháp, Úc, Đức… đâu cũng được thôi. Quê hương Việt Nam đã rời bỏ đi rồi, thì nổi trôi đến đâu bám tới đó...
Hôm qua / ở đây là ngày đầu mùa xuân / tờ lịch rơi xuống một nụ đào / Tháng Ba sắp hết / Tháng Tư như lệ sắp trào...
Lúc đầu tôi không biết chị bị bệnh tâm thần. Về sau tôi được nghe kể về cuộc đời của chị từ một người phụ nữ Việt Nam khác, tên Loan, đã sống ở đây nhiều năm. Nhưng những chi tiết về cuộc đời ấy hầu như ngay tức khắc trượt ra khỏi trí nhớ của tôi, tôi chỉ còn nhớ người phụ nữ mắc bệnh ấy sống ở thành phố này có lẽ ít nhất cũng hai mươi năm, nhiều người bảo chị khá đẹp khi còn trẻ, bây giờ nhìn cũng vẫn hình dung được điều đó...
Bầu không khí trong phòng giam lúc nào cũng ngột ngạt khó chịu. Nỗi khó chịu ấy cứ liên tục bao trùm đến nỗi mọi người phải quen đi như một lẽ tất nhiên. Tôi càng khổ sở hơn nhiều vì đã vướng phải bệnh ghẻ mấy tháng nay. Ghẻ mỗi ngày mỗi lan ra trên tấm thân gầy còm của tôi kéo theo luôn cả sự tàn tạ về sức khỏe. Mới vài hôm đây tôi lại mắc thêm chứng tê bại, cử động tay chân rất khó khăn. Thuốc men quá thiếu, ăn uống cũng quá thiếu, tình trạng chữa trị đối với tôi thật là bi quan...
Thơ của hai nhà thơ: Trần Mộng Tú & Vĩnh Ngộ...
Mùa xuân 2023. Ngoài chuyện nhớ lại mùa xuân cách nay 48 năm với “Tháng Ba Gãy Súng” (1) và “Tháng Tư Mất Nước” (2) tôi còn nhớ đến nhiều chuyện khác nữa, nhớ nơi tôi sinh ra, nhớ nơi tôi lớn lên và học hành, nhớ nơi tôi từng công tác, nhớ Sài Gòn, nhớ Đà Lạt, nhớ Nha Trang, nhớ Cần Thơ, nhớ An Giang, nhớ đèo Hải Vân, nhớ sông Vàm Cỏ…và nhớ nhớ nhiều lắm. Nằm trong bộ nhớ của tôi còn có rất nhiều người bạn – bạn thân – bạn rất thân nữa. Một người bạn rất thân là Nguyễn Đức Quang, cùng xứ, cùng trường, cùng chơi Hướng Đạo, cùng hát Du Ca…
Có thể nói ai cũng có lần nói lái ở trong đời, đôi lúc chỉ vô tình thôi. Nếu bạn buột miệng nói “đi giữa trời nắng cực quá” hoặc khi đèn điện không sáng mà bạn nói “điện sao lu quá chừng”, người nghe sẽ cho là bạn nói tục, có oan cũng đành chịu vì, dù bạn không cố ý nhưng nắng cực, điện lu nói lái nghe tục thật. Tương tự như thế, hãy cẩn thận đừng nói dồn lại, dồn lên, đồn láo, đồn lầm…
Không biết có phải do được học tập và làm việc trong môi trường lập trình điện toán nên tôi cứ nghĩ rằng mọi việc xảy ra trên thế gian này đều được an bài qua việc lập trình sẵn. Có người cho rằng sự lập trình sẵn này là định mệnh, là do ông trời sắp đặt hay do thượng đế an bài. Tuy nhiên, sau khi được tiếp cận với giáo lý nhà Phật, tôi cho rằng không ai lập trình sẵn cho cuộc đời mình, tất cả đều do nhân duyên.
Cách nay mười năm tôi có một chuyến sang Nhật Bản vào mùa xuân. Chọn đi vào dịp này là để xem anh đào ngoài chuyện viếng các thắng cảnh nổi tiếng như núi Phú Sĩ, Kim Các Tự, các đền đài, cổ thành, hào lũy… qua các thời trị vì của các tướng quân cũng như thăm một số thành phố như Tokyo, Kyoto, Kobe, Nagoya, Osaka…
Hễ mỗi lần nghe nói ai mới qua định cư xứ tự do, mà họ bày tỏ lòng biết ơn, cảm kích với quê hương thứ hai, tôi cũng thấy mát lòng mát dạ sao á!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.