Hôm nay,  

5 Địa Điểm Nổi Tiếng Thế Giới Cấm Nữ Du Khách

21/06/202400:00:00(Xem: 6207)
 
 
Các quý cô quý bà đang mong muốn ‘sưu tầm’ thêm vài con dấu cho Thẻ thông hành (Passport) của mình? Quý vị có thể sẽ phải gạch bỏ 5 điểm sau đây trong danh sách du lịch của mình. Những chỗ này không chỉ nổi tiếng với cảnh đẹp tuyệt vời hay giá trị lịch sử thiêng liêng, mà còn vì họ cấm nữ du khách lui tới.
 
1. Núi Athos, Hy Lạp

Athos

Hoàng hôn trên núi Athos. (Nguồn: pixabay.com)


Hơn 1,000 năm qua, những người hành hương và các tu sĩ Chính Thống Giáo Orthodox đã tập trung về hàng chục tu viện
Eastern Orthodox ở trên và xung quanh núi Mount Athos. Ngọn núi này nằm trên một bán đảo tuyệt đẹp ở phía bắc Hy Lạp, nổi tiếng với cảnh quan hùng vĩ và những tác phẩm nghệ thuật hiếm có. Núi Athos còn được mệnh danh là “Núi Thánh,” và hơn 100 dặm (khoảng 160 km vuông) xung quanh núi đã được công nhận là di sản thế giới của UNESCO từ những năm 1990 vì có “ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với toàn thế giới.
 
Nhưng dù có “tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn thế giới,” Núi Athos không mở cửa chào đón tất cả mọi người. Từ năm 1046 sau Công nguyên, phụ nữ và các động vật giống cái đều bị cấm đặt chân đến bán đảo Athos – chỉ trừ mèo cái.
 
Các tu viện trên núi Athos cấm phụ nữ không chỉ vì sự hiện diện của họ có thể sẽ ‘làm khó’ các nam tu sĩ trong việc giữ lời thề độc thân, mà còn vì truyền thống Chính Thống Giáo cho rằng ngọn núi này thuộc về Đức Trinh Nữ Maria, nên những người người phụ nữ khác không được phép đặt chân lên vùng đất linh thiêng này.
 
Tuy nhiên, một số phụ nữ đã cố gắng lẻn vào khu vực này bằng cách ‘giả trang’ thành đàn ông. Năm 2019, người ta khai quật được một bộ xương phụ nữ bên dưới một nhà nguyện Byzantine trên bán đảo này. Cho đến nay, Mt. Athos vẫn là nơi chỉ dành cho nam giới và có quy chế pháp lý đặc biệt ngay bên trong Hy Lạp. Đây được coi là một khu vực tự trị; một điều khoản đặc biệt trong luật pháp Châu Âu cho phép Núi Athos có quy chế đặc biệt “vì lý do tâm linh và tôn giáo.”
 
2. Núi Ōmine, Nhật Bản
 
Rời Châu Âu và đến với Châu Á, Núi Ōmine trên đảo Honshu của Nhật Bản cũng nổi tiếng với ý nghĩa linh thiêng và quy định cấm phụ nữ.

Omine

Biển báo cấm phụ nữ ở chân núi Ōmine, Nhật Bản. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)


Núi Ōmine cũng đã được công nhận là di sản thế giới của UNESCO, và có ý nghĩa quan trọng về mặt tâm linh. Từ lâu, các đền thần Shinto và chùa Phật giáo ở nơi này đã thu hút rất nhiều người tu hành, du khách và thậm chí cả các thành viên của hoàng gia.
 
Tuy nhiên, phụ nữ đã bị cấm lên đỉnh núi Ōmine trong hơn 1,000 năm qua vì hai lý do chính: để tránh làm “phân tâm” đàn ông hành hương và tránh sự hiện diện của phụ nữ đang có kinh nguyệt trong các nghi lễ. Dù lệnh cấm này đã rất lâu đời, nhưng vẫn bị phản đối mạnh mẽ. Hơn 10,000 phụ nữ Nhật Bản đã kiến nghị gỡ bỏ lệnh cấm này khi núi Ōmine được công nhận là di sản thế giới vào năm 2004.
 
3. Đảo Okinoshima, Nhật Bản
 
Một di sản thế giới khác ở Nhật Bản cũng cấm phụ nữ là Đảo Okinoshima, một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Fukuoka. Hòn đảo này do các tu sĩ Shinto thay phiên nhau trông coi. Cả hòn đảo Okinoshima được tôn thờ như một vị thần, và được UNESCO công nhận là “thí dụ điển hình về truyền thống thờ phụng một hòn đảo thiêng.
 
Oknishima

Lối vào một ngôi đền trên đảo Okinoshima, Nhật Bản. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)

 
Nguồn gốc của đảo Okinoshima được cho là có liên quan đến ba vị nữ thần biển, đang được thờ phụng tại ba ngôi đền trên đảo. Trong hơn một ngàn năm qua, những người hành hương đã mang rất nhiều lễ vật đến đảo, chẳng hạn như gương soi, tiền xu và nhẫn vàng từ bán đảo Triều Tiên. Những đồ vật này tượng trưng cho sự giao lưu, trao đổi giữa Nhật Bản và Hàn Quốc trong quá khứ.
 
Ngày nay, đảo Okinoshima cấm phần lớn cả nam và nữ. Tuy nhiên, hàng năm, có một lễ hội trên đảo cho phép nam giới tham gia, nên mỗi năm có hàng trăm đàn ông được phép đến đảo Okinoshima trong dịp lễ hội này. Dù vậy, họ chỉ được phép đặt chân lên đảo sau khi đã tắm mình trong nước biển. Vậy tại sao phụ nữ không được phép tham gia? Năm 2017, một viên chức giải thích rằng chuyến đi đến đảo Okinoshima được coi là quá nguy hiểm đối với phụ nữ, và họ bị cấm là để đảm bảo an toàn cho chính họ.
 
4. Herbertstrasse, Hamburg, Đức
 
Ngay cả Châu Âu tự do và bình đẳng cũng có một khu vực cấm nữ du khách: phố Herbertstrasse nổi tiếng của Hamburg. Con phố này nằm gần Reeperbahn, khu vực được xem là một trong những khu “phố đèn đỏ” nổi tiếng nhất thế giới. Thực tế, Herbertstrasse là một con phố nhỏ với ánh đèn neon rực rỡ và hàng trăm ô cửa “trưng bày” gái mại dâm ăn mặc hở hang (nhưng hợp pháp). Dù là một con phố công cộng, và lẽ ra phải tuân theo luật bình đẳng giới nghiêm ngặt của Đức, nhưng du khách đến Herbertstrasse phải đi qua những rào chắn lớn có gắn biển báo cấm tất cả nữ du khách và nam giới dưới 18 tuổi vào.

Herber

Một ô cửa ở phố Herbertstrasse. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)

 
Những rào chắn này có một lịch sử đen tối: gái mại dâm đã hành nghề ở Hamburg và trên phố Herbertstrasse từ lâu, và con phố nổi tiếng này từng mở cửa cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, vào năm 1933, khi Đức Quốc Xã lên nắm quyền, chúng đã dựng rào chắn để đóng cửa phố Herbertstrasse. Lý do ban đầu được đưa ra là để kiểm soát mại dâm và tệ nạn xã hội, để bảo vệ đạo đức của người dân không bị “tha hóa.” Nhưng thực chất việc cô lập gái mại dâm khỏi cộng đồng còn là để che đậy những bức hại mà họ phải chịu đựng.
 
Bắt đầu từ năm 1933, Đức Quốc Xã đã bắt giữ hơn 3,000 phụ nữ ở Hamburg với tội danh “phi xã hội” (asocials) vì hành nghề mại dâm. Nhiều người trong số đó đã chết trong các trại tập trung như Ravensbruck và Neuengamme. Câu chuyện về họ dần chìm vào quên lãng. Sau khi Đức Quốc Xã sụp đổ, các rào chắn – cùng lệnh cấm nữ du khách – vẫn còn đó. Những năm 1970, Hamburg thậm chí còn xây thêm và dựng hàng rào cao hơn để che khuất khu vực này khỏi tầm nhìn của mọi người. Ngày nay, những con đường xung quanh phố Herbertstrasse có thêm những tảng đá “Stolpersteine” (đá tưởng niệm), hay những tấm biển tưởng niệm có đề tên những phụ nữ đã bị bức hại và chết trong các trại tập trung của Đức Quốc Xã.
 
5. Công viên Quốc gia Band-e-Amir, Afghanistan
 
Được mệnh danh là một phiên bản của Grand Canyon ở Afghanistan, Band-e-Amir thuộc tỉnh Bamiyan và là công viên quốc gia đầu tiên thuộc loại này ở Afghanistan. Công viên quốc gia Band-e-Amir nổi tiếng với các hồ nước tuyệt đẹp, vách đá cao vút và những con đập tự nhiên hùng vĩ.
 
Band emar

Cảnh đẹp hùng vĩ của công viên quốc gia Band-e-Amir ở Afghanistan. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)

 
Công viên quốc gia Band-e-Amir chính thức mở cửa vào năm 2009, và nằm trong danh sách đề cử di sản thế giới của UNESCO. Nơi này từng được coi là biểu tượng cho sự phát triển và tiến bộ của Afghanistan sau chiến tranh, thậm chí còn từng tuyển dụng những nữ kiểm lâm viên đầu tiên của quốc gia. Tuy nhiên, vào năm 2023, chính phủ Afghanistan do Taliban kiểm soát đã ra lệnh cấm phụ nữ vào công viên Band-e-Amir, với lý do được cho là để giữ gìn “đức hạnh” của phụ nữ và bảo vệ “thuần phong mỹ tục” của đất nước. Các chiến binh Taliban được triển khai canh gác tại các lối vào công viên để cấm không cho phụ nữ vào.
 
Hành động này chỉ là một trong hàng loạt những biện pháp nhằm cấm cản phụ nữ lui đến những nơi công cộng ở Afghanistan. Kể từ khi Taliban tái chiếm quyền kiểm soát đất nước vào năm 2021, phụ nữ đã bị cấm tham gia vào hầu hết các hoạt động cộng đồng, bị áp đặt các quy định nghiêm ngặt về cách ăn mặc và việc đi lại, và bị cấm đi xa bằng các phương tiện giao thông công cộng.
 
Cư dân địa phương cho biết du lịch đã giảm sút kể từ khi lệnh cấm có hiệu lực. Hiện nay, những phụ nữ được nhìn ngắm phong cảnh của công viên quốc gia này chỉ có thể là những người đang sống ngay tại đó.

Cung Đô sưu tầm/biên dịch
Nguồn: “No women allowed: These 5 destinations are men-only” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Dự án 2025 đề ra những thay đổi sâu rộng trong toàn bộ chính phủ liên bang, đặc biệt trong chính sách kinh tế và xã hội, và vai trò của chính phủ và các cơ quan liên bang. Trong những thay đổi đó có cả việc cắt giảm tài trợ cho Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (DOJ), tháo dỡ cơ quan điều tra FBI và Bộ An ninh Nội địa, hủy bỏ các quy định về môi trường và biến đổi khí hậu để giúp gia tăng sản xuất nhiên liệu như dầu hỏa, cùng loại bỏ các Bộ Giáo dục và Thương mại ra khỏi nội các chính phủ. Hãng thông tấn Associated Press có một bài tóm tắt song rành mạch những chương trình của Dự án 2025 đối nội cũng như đối ngoại, tại đường dẫn này. Bao gồm trong Dự án 2025 cũng gồm cả việc lập tức dùng Đạo luật nổi dậy năm 1807 để tổng thống có thể ra lệnh cho quân đội vào dẹp các vụ biểu tình chống đối chính phủ, cùng chỉ đạo Bộ Tư pháp truy lùng các đối thủ của ông Trump. Chính ông Trump cũng đã từng tuyên bố với những người ủng hộ ông là ông là người sẽ giúp họ phục hận. Theo luật hiện hành, quân đội không đượ
Nghèo đói là yếu tố quyết định mạnh mẽ của bệnh Lao. Môi trường sống và làm việc đông đúc và kém thông gió thường liên quan đến nghèo đói, tạo thành các yếu tố gây nguy cơ trực tiếp cho việc lây truyền bệnh lao. Suy dinh dưỡng cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng để bệnh phát triển. Nghèo đói lại cũng liên quan đến tình trạng kém kiến thức về sức khỏe và từ đó thiếu những sự bảo vệ sức khỏe trong đời sống hàng ngày dẫn đến nguy cơ tiếp xúc và truyền bệnh.
Trong hai ngày Thứ Bảy & Chủ Nhật 17 & 18/08/2024, tại Bowers Museum, Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt phối hợp cùng Trung Tâm Việt Nam Texas Tech University, Trung Tâm Nghiên Cứu Việt - Mỹ University of Oregon đã tổ chức hai buổi triển lãm và thảo luận về hai chủ đề: Cải Cách Ruộng Đất Miền Bắc Việt Nam và Cuộc Di Cư Năm 1954. Khoảng 1,000 lượt người đã đến tham dự hai sự kiện về lịch sử từ bảy thập niên trước. Có thể nói rằng lâu lắm rồi tại Thủ Đô Người Việt Tị Nạn mới có một sự kiện lịch sử được tổ chức với qui mô lớn và công phu như thế. Động lực nào đã khiến ba tổ chức chuyên nghiên cứu lịch sử cận đại Việt Nam cùng nhau tổ chức sự kiện này? Ông Châu Thụy, Giám Đốc Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt nói lời khai mạc, chào mừng mọi người đến với cuộc triển lãm và hội thảo, để cùng nhau ôn lại, nhìn theo những góc nhìn mới về hai sự kiện lịch sử vẫn còn ảnh hưởng đến người Việt cả trong nước lẫn hải ngoại đến tận ngày hôm nay.
Hiểu cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đòi hỏi phải đặt nó trong một bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn, thay vì xem xét nó một cách tách biệt. Được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1953, cải cách ruộng đất bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các sự kiện biến động sau Thế chiến II. Sự kết thúc của cuộc chiến, nạn đói năm 1945, và cuộc đấu tranh sau đó để giành độc lập khỏi ách thực dân Pháp đã tạo ra một không khí cách mạng ở Việt Nam. Cuộc chiến tranh Pháp-Việt (1946-1954) đã làm tăng sự cấp bách cho những thay đổi xã hội và kinh tế triệt để khi Việt Minh tìm cách củng cố quyền lực và giải quyết các bất bình giữa người giàu và người nghèo do khai thác thực dân gây ra.
Cuối tuần vừa qua tôi đi dự hội thảo về Việt Nam tại Bảo tàng Bowers ở thành phố Santa Ana, thủ phủ của Quận Cam. Hai ngày hội thảo với hai chủ đề có liên quan với nhau là Cải cách Ruộng đất 1953-56 và Di cư 1954. Xong ngày đầu của hội thảo, đi ăn tối với một bạn sống ở Quận Cam từ năm 1978, khi biết chủ đề là về cải cách ruộng đất, bạn hỏi ngay: “Có hình Hồ Chí Minh cầm khăn khóc không?”. Bạn tôi ít quan tâm đến sinh hoạt cộng đồng nhưng cũng biết sử Việt vì là con trong gia đình bắc di cư 54, lớn lên tại miền Nam và sống ở đó cho đến khi vượt biển. Hình Hồ Chí Minh khóc và sự kiện bà Nguyễn Thị Năm đóng góp nhiều vàng cho Việt Minh rồi cũng bị đấu tố trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam từ 1953 đến 1956 có lẽ là những hiểu biết cơ bản của nhiều người Việt, dù không chứng kiến hay trực tiếp là nạn nhân trong sự việc. Những hình ảnh đó hôm nay cũng đã được trưng bày tại Bảo tàng Bowers và có trong bài nói chuyện của diễn giả tại hội thảo.
Chương trình Triển Lãm Và Thảo Luận Cải Cách Ruộng Đất ở Bắc Việt & Cuộc Di Cư 1954 vừa chấm dứt. Việt Báo đăng lại toàn bài của giáo sự Trần Huy Bích chiều Chủ Nhật ngày 18 tháng 8 tại Bowers Museum kể lại câu chuyện di cư của Ông và bối cảnh Bắc Việt những ngày tháng 8, 1954.
John Andrew Jackson vừa chào đời đã mang phận nô lệ, và được định sẵn là sẽ dành trọn kiếp sống tủi nhục trên những cánh đồng bông vải ở Nam Carolina. Nhưng, không cúi đầu trước số phận, Jackson đã thoát khỏi cảnh nô dịch, trở thành một diễn giả và văn nhân có ảnh hưởng lớn đến phong trào bãi nô. Ông cũng là nguồn cảm hứng cho tác phẩm kinh điển Uncle Tom's Cabin (Túp Lều của Chú Tom) của Harriet Beecher Stowe, xuất bản năm 1852. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng về chế độ nô lệ này được nhiều sử gia đánh giá là đã góp phần thúc đẩy cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ.
(Little Saigon-VB) - Để đánh dấu 70 năm cuộc di cư Bắc Nam hậu Hội nghị Geneva; và cùng nhìn lại sự kiện Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam dưới thời VNDCCH với tác động, hệ lụy trên cả nước đối với quốc gia, dân tộc Việt, Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt, Trung Tâm Việt Nam ĐH Texas Tech, Trung Tâm Nghiên Cứu Việt-Mỹ ĐH Oregon phối hợp tổ chức Triển Lãm Thảo Luận Cải Cách Ruộng Đất ở Bắc Việt và Cuộc Di Cư 1954: Hai Biến Cố Thay Đổi Lịch Sử Việt Nam Hiện Đại vào hai ngày: Thứ Bảy, ngày 17 tháng 8: Cải cách ruộng đất và đấu tranh giai cấp ở miền Bắc Việt Nam, 1953-1957; Chủ nhật, ngày 18 tháng 8: Cuộc di cư của gần 1 triệu người từ miền Bắc vào miền Nam năm 1954 tại Bowers Museum 2002 N. Main St, Santa Ana, CA 92706.
Ở Hy Lạp thời cổ đại, Thế vận hội Olympics không chỉ là sự kiện để các vận động viên thể hiện sức mạnh và tài năng, mà còn là dịp để những tâm hồn thi ca tỏa sáng – họ sẽ mang những vầng thơ của mình xướng lên trước đám đông khán giả đang háo hức. Và thời đó, các vận động viên cũng thường cậy nhờ những thi sĩ nổi tiếng sáng tác những bài thơ ca ngợi chiến thắng vinh quang của mình. Sau đó, những bài thơ này sẽ được các dàn hợp xướng biểu diễn trong các buổi lễ long trọng. Có một thời văn-võ đã song hành với nhau như thế.
Kể từ khi thượng nghị sĩ JD Vance được chỉ định làm ứng viên phó tổng thống của Donald Trump, các nhà bình luận đã xem xét lại cuốn hồi ký “Hillbilly Elegy” năm 2016 của Vance để tìm hiểu về bối cảnh chính trị hiện nay của Hoa Kỳ. Tám năm trước, Vance là người không bao giờ chấp nhận Trump (Never-Trumper), từng so sánh chủ nghĩa Trump (Trumpism) với “heroin văn hóa,” trong một bài viết trên tạp chí The Atlantic. Tuy nhiên, cuốn hồi ký của Vance là một tài liệu quan trọng để giải thích tại sao chính trị Hoa Kỳ ngày nay lại chuyển hướng ủng hộ Trump.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.