Hôm nay,  

Những Người Đa Đen Đã Ngã Xuống Cho Quyền Bầu Cử

08/11/202400:00:00(Xem: 2313)

hình 1
Hiram R. Revels, người da đen đầu tiên phục vụ tại Quốc hội Hoa Kỳ. Ảnh: Public domain via Wikimedia Commons

Hôm đó là thứ Năm và là một đêm hè bình thường tại thị trấn Brownsville, Tennessee. Sau một ngày làm việc ở tiệm giặt đồ Sunshine Laundromat, Elbert Williams, thành viên sáng lập của chi nhánh NAACP, trở về nhà như mọi khi. Cả nhà Williams cùng nghe trận quyền anh hạng nặng giữa Joe Louis và Arturo Godoy. Gần 10 giờ tối, khi họ chuẩn bị đi ngủ, thì bỗng có tiếng gõ cửa.
 
Thường thì chẳng có ai đến thăm trễ như thế này, nhưng vợ của Williams, Annie, vẫn ra mở cửa. Đứng trước cửa là Samuel “Tip” Hunter – cảnh sát trưởng vừa mới nhậm chức của hạt Haywood, mặc đồng phục rất chỉnh tề. Hunter yêu cầu Williams ra ngoài, một sĩ quan khác đang chờ sẵn và bắt giữ ông ngay lập tức. Không có bất kỳ lệnh bắt giữ nào. Cũng không ai biết chuyện gì đã xảy ra với Williams sau khi bị đưa đi. Tất cả chỉ là suy đoán dựa trên một số bằng chứng và kết quả điều tra của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ.
 
Vào ngày 23 tháng 6 năm 1940, ba ngày sau buổi tối định mệnh đó, thi thể của Elbert Williams, với đôi chân bị trói và nhiều vết bầm tím, được phát hiện trên sông Hatchie gần nơi ông sống. Nạn nhân Williams, 31 tuổi, bị bắn chết; chân bị trói chặt bằng dây thừng và đầu có dấu hiệu bị đánh đập rất mạnh. Nhiều người tin rằng nguyên nhân khiến Williams bị sát hại là do những nỗ lực ghi danh cử tri ở Brownsville.
 
Dù người Hoa Kỳ gốc Phi chiếm tới 75% dân số thị trấn Brownsville, quyền lực thực tế vẫn thuộc về người da trắng. Cũng như ở nhiều cộng đồng khác trên khắp Hoa Kỳ trong thời kỳ Tái thiết (Reconstruction) và luật Jim Crow kéo dài hàng thập niên, người da trắng duy trì quyền lực này bằng khủng bố, dập tắt mọi ảnh hưởng chính trị vừa nhen nhóm của cộng đồng cử tri gốc da đen.
 
Mấy năm sau Nội chiến (Civil War), người Mỹ gốc Phi – phần lớn từng là nô lệ – đã tận dụng quyền bỏ phiếu để tạo ra các thay đổi trong cộng đồng của họ. Từ năm 1865 đến 1876, hơn 200 người Mỹ gốc Phi ở Mississippi đã giữ các vị trí trong bộ máy chính quyền, trong đó có Hiram Revels, người đầu tiên trở thành TNS da màu của Hoa Kỳ. Không phải ngẫu nhiên mà Ku Klux Klan (KKK) chính thức ra đời trong thời gian đó.
 
Bryan Stevenson, giám đốc tổ chức vô vụ lợi Equal Justice Initiative (EJI), cho biết: “Khi quyền tự do được trao cho người da đen, nhiều người da trắng cảm thấy vô cùng sốc khi thấy những người từng là nô lệ lại nhanh chóng đón nhận và thực hiện các quyền dân chủ, đặc biệt là quyền bầu cử. Ngay sau khi được giải phóng, 80% nam giới người Mỹ gốc Phi đã ghi danh bầu cử và dùng lá phiếu của mình để tạo ra cơ hội và sức mạnh thực sự. Và rồi bạo lực nhanh chóng trở thành công cụ chính để ngăn chặn họ.”
 
Theo một phúc trình của EJI vào năm 2020, từ năm 1865 đến 1876, đã có hơn 2,000 người Mỹ gốc Phi bị treo cổ trên khắp Hoa Kỳ. Ước tính từ năm 1877 đến 1950, tổng cộng có hơn 4,000 người bị treo cổ. Những vụ đấu tố và hành quyết ngoài vòng pháp luật này là để khủng bố cộng đồng người da đen, khiến họ không dám tham gia chính trị.
 
Trong bài “Strange Fruit,” nữ danh ca Billie Holiday sử dụng từ “lynching” để ám chỉ những cái xác của người da đen vô tội treo lủng lẳng như trái trên cành, đầy ám ảnh và đau thương. Stevenson cũng đã mở rộng nghĩa của “lynching,” bao gồm cả những vụ sát hại bằng bom hay súng, gọi đây là “những vụ đấu tố và tư hình bạo lực, nhằm vào màu da của nạn nhân để khủng bố và gieo rắc nỗi sợ hãi trong toàn bộ cộng đồng.
 
Năm 1939, với sự ra đời của tổ chức NAACP tại Brownsville và phong trào Quyền Bầu cử của họ, một chiến dịch khủng bố đã diễn ra, khiến nhiều người gốc da đen phải bỏ nhà cửa và rời đi nơi khác sinh sống. Elbert Williams không phải người đầu tiên bị cảnh sát địa phương chất vấn. Theo tờ New York Amsterdam News, ít nhất tám người khác trong NAACP đã bị thẩm vấn, tra hỏi bởi cảnh sát Brownsville.
 
Stevenson nhấn mạnh: “Đây không phải là hành động của một thành viên Klan vô danh, cũng không phải của một kẻ ngoài vòng pháp luật. Đây là cảnh sát trưởng và cảnh sát tuần tra, những người chỉ có thể nắm giữ quyền lực vì người Da đen đã bị tước quyền bầu cử.” Dù người dân đã xác nhận rằng cảnh sát trưởng Samuel Hunter và chín người khác là những kẻ đã đưa Williams khỏi nhà, không ai trong số đó phải chịu trách nhiệm về cái chết đầy oan khuất của ông.
 
EJI đã dựng một đài tưởng niệm tại Alabama để vinh danh những người gốc da đen đã ngã xuống vì quyền bầu cử. Stevenson chia sẻ: “Có hàng chục người như Elbert Williams đã mất mạng để thúc đẩy quyền công dân và quyền bầu cử cho cộng đồng da đen.”
 
Kellie Carter Jackson, tác giả cuốn We Refuse: A Forceful History of Black Resistance, cũng đồng ý và cho biết thêm: “Khi nói đến quyền bầu cử, đừng nghĩ đơn giản rằng đó là quyền cơ bản của mọi người mà, ai cũng có quyền bỏ phiếu hết. Mà đó là điều mà người ta được trao quyền để làm, là cách để khẳng định chúng ta tự do và bình đẳng.
 
Chiến dịch khủng bố năm 1940 ở Brownsville đã khiến chi nhánh NAACP của thị trấn phải đóng cửa, và hơn 30 gia đình da màu đã phải chuyển đi nơi khác sống sau vụ sát hại Elbert Williams. Nhưng tất cả vẫn không thể ngăn cản cộng đồng gốc da đen ở Brownsville tiếp tục đi bỏ phiếu. Mùa thu năm đó, NAACP đã vận động chính phủ liên bang, yêu cầu triển khai Lực lượng Vệ binh Quốc gia đến Brownsville để bảo đảm an toàn cho các cử tri đi bỏ phiếu.
 
Sự kiên trì, bền bỉ của các nhà hoạt động cho thấy họ khát khao được tham gia bầu cử và tin rằng lá phiếu của mình có ý nghĩa. Jackson cho hay: “Nếu quyền bầu cử không quan trọng, lá phiếu không có giá trị và không mang lại quyền lực, thì đã không có ai tìm mọi cách để ngăn cản người khác tham gia bầu cử.
 
Walter White, thư ký ban điều hành NAACP lúc bấy giờ, ca ngợi lòng dũng cảm của những người bỏ phiếu; ông viết: “Họ đã thể hiện tinh thần kiên cường của công dân da đen miền Nam, quyết tâm giành quyền bầu cử – một quyền cơ bản, là nền tảng của cuộc đấu tranh vì dân chủ của chúng ta.
 
Chi nhánh NAACP tại Brownsville đã được mở lại vào năm 1961.
 
Mùa hè năm ấy, trong thị trấn Brownsville, chỉ có Elbert Williams là nạn nhân bị sát hại vì ủng hộ quyền bầu cử; còn lại thì rất nhiều người khác phải đối mặt những đe dọa và khủng bố tương tự. Williams chắc hẳn phải biết những việc mình làm là rất nguy hiểm, nhưng có lẽ ông không nghĩ rằng mình sẽ phải trả giá bằng cả mạng sống. Williams là thành viên đầu tiên của NAACP bị lynching, và không phải là người duy nhất. Những người như Williams còn được gọi là “tử vì đạo.
 
Maceo Snipes
 
Maceo Snipes là một cựu chiến binh Thế Chiến II. Vào ngày 18 tháng 7 năm 1946, Snipes đã bị bắn chết ngay trước cửa nhà mình khi đang ăn tối với mẹ, không phải do bị thương trong chiến tranh, mà bởi bốn kẻ khủng bố trong nước. Mẹ của Snipes kể lại rằng con trai bà bị bắn nhiều phát ngay khi mở cửa, và qua đời hai ngày sau đó vì vết thương quá nặng.
 
Giống như nhiều cựu chiến binh da màu khác trở về từ chiến trường, Snipes mong muốn đất nước của mình bảo vệ quyền tự do cho người da đen, giống như cách quân đội Hoa Kỳ đã chiến đấu để mang lại tự do cho những người bị áp bức dưới chế độ của Đức quốc xã. Một ngày trước khi bị giết, Snipes đã thực hiện quyền bầu cử của mình, tham gia bỏ phiếu trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ tại Georgia, và cũng là người da đen duy nhất tham gia bầu cử tại Hạt Taylor.
 
Cái chết của Snipes chẳng bao giờ được điều tra. Trong phiên tòa nghiệm tra, can phạm Edward Williamson đã thừa nhận mình là người bắn Snipes, nhưng biện minh rằng đó là hành động tự vệ. Mãi đến năm 2008, Cơ quan Dân quyền (Civil Rights Division) thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã xem xét lại vụ án, nhưng không tìm thấy chứng cứ đủ mạnh để bác bỏ lời biện minh tự vệ của Williamson. Do đó, vụ án được khép lại với kết luận rằng việc Snipes tham gia bầu cử không phải là lý do chính dẫn đến án mạng.
 
Harry và Harriette Moore
Hình 2
Ngôi nhà bị đánh bom của Harry và Harriette Moore. Ảnh: Public domain via Wikimedia Commons
 
Vợ chồng Harry T. Moore là nhữn nhà hoạt động dân quyền ở Florida. Họ đã tích cực điều tra các vụ lynching và sáng lập ra Liên hội Cử tri Tiến bộ Florida (Florida Progressive Voters League) để giúp hơn 100,000 người Mỹ gốc Phi ghi danh bầu cử. Trong suốt hơn một thập niên, Harry Moore đã đóng vai trò lãnh đạo trong nhiều hoạt động của NAACP, bao gồm việc tổ chức các chiến dịch vận động bầu cử cho cộng đồng da đen.
 
Đêm Giáng sinh năm 1951, đúng vào dịp kỷ niệm 25 năm ngày cưới của vợ chồng Moore, họ bị sát hại bằng bom, đặt ngay dưới giường. Harry chết ngay tại chỗ, còn Harriette được đưa đi cấp cứu nhưng cũng qua đời sau 9 ngày. Ngay tại nơi đó, người ta dựng lên một bản sao giống ngôi nhà cũ, hiện nay là một bảo tàng.
 
Từ năm 1951 đến 2008, đã có năm cuộc điều tra liên quan đến vụ án mạng này, đều chỉ ra có sự tham gia của bốn thành viên Ku Klux Klan, nhưng không ai bị truy tố. Bộ Tư pháp chỉ kết luận rằng: “Chính hoạt động bảo vệ quyền dân sự của Moore… đã khiến ông trở thành mục tiêu của Klan.” Rồi đến năm 2011, vụ án chính thức khép lại.
 
Mục sư George Lee
 
Giống như Elbert Williams, mục sư George Lee sống trong một cộng đồng chủ yếu là người Mỹ gốc Phi và đã cùng những người khác thành lập một chi nhánh của NAACP tại Hạt Humphreys, bang Mississippi. Mục sư Lee đã giúp gần 100 người đa đen ghi danh cử tri. Và những nỗ lực này cũng khiến ông phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Ngày 7 tháng 5 năm 1955, xe của ông bị xả súng liên tục. Theo tờ Chicago Tribune, mặc dù rất nhiều viên đạn được gắp ra từ đầu của Lee, cảnh sát trưởng thị trấn lại tuyên bố rằng cái chết của ông là do tai nạn giao thông. Nguyên nhân cái chết của mục sư Lee được ghi trong báo cáo là “không rõ.
 
Bộ Tư pháp có mở cuộc điều tra, nhưng không có đủ bằng chứng để liên kết cái chết của Lee với các hoạt động dân quyền. Tuy nhiên, một số nhân chứng cho biết Lee là một trong những người bị yêu cầu rút tên khỏi danh sách cử tri bởi các thành viên của Hội đồng Công dân (Citizens Council). Mục sư đã từ chối yêu cầu này và đây có thể là nguyên nhân khiến ông bị sát hại. Hai can phạm chính cũng chẳng bị truy tố, và vụ án cứ thế mà được khép lại vào năm 2011 – sau hơn 50 năm.
 
Lamar Smith
 
Lamar Smith, cựu chiến binh Thế chiến I, cũng liên tục bị đe dọa phải ngừng nỗ lực ghi danh cử tri và tổ chức bầu cử cho người Mỹ gốc Phi tại Brookhaven, Mississippi. Brookhaven là một thị trấn công nghiệp chuyên về các nguyên liệu thô như bông, gỗ và sỏi. Ở tuổi 63, Smith bị bắn chết ngay giữa đám đông vào ngày 13 tháng 8 năm 1955. Nhưng không có ai sẵn sàng ra làm chứng hoặc cung cấp thông tin cho cảnh sát để buộc tội ba can phạm.
 
Jimmie Lee Jackson
 
Jimmie Lee Jackson, bị bắn chết trong một cuộc biểu tình vì quyền bầu cử ở Marion, Alabama, vào ngày 18 tháng 2 năm 1965. Cùng với khoảng 500 người biểu tình không vũ khí, hai mẹ con Jackson bị lực lượng cảnh sát tấn công. Trong lúc cố gắng bảo vệ mẹ mình, Jackson xô xát với cảnh sát, bị đánh đập tàn bạo và bị bắn, rồi qua đời sau đó 8 ngày.
 
Cái chết của Jackson từng được tái hiện trong bộ phim “Selma” (2014), và đã trở thành động lực cho cuộc diễu hành qua cầu Edmund Pettus – một sự kiện quan trọng trong phong trào dân quyền. Mãi đến năm 2010, James Bonard Fowler, cảnh sát viên đã bắn Jackson, mới nhận tội ngộ sát và bị kết án sáu tháng tù.
 
James Chaney

hình 3
Áp phích về vụ Andrew Goodman, James Chaney và Michael Schwerner mất tích.  Ảnh: Public domain via Wikimedia Commons
 
James Chaney, cùng với hai nhà hoạt động khác là Michael Schwerner và Andrew Goodman, cũng là các nhà hoạt động vì quyền bầu cử cho người Mỹ gốc Phi, và cũng bị sát hại. Xác của họ được tìm thấy ở gần một con đập tại Neshoba County, Mississippi. Vụ án ba mạng người này đã khiến cả nước rúng động. Một phần lý do là vì Schwerner và Goodman không phải là người Mỹ gốc Phi, mà là người Do Thái, và họ còn có quan hệ với các tổ chức ở miền Bắc.
 
Vợ của Schwerner, Rita, đã công khai nói rằng: “Nếu Chaney là người duy nhất bị mất tích, rất có thể vụ án này cũng sẽ im hơi lặng tiếng như nhiều vụ khác trước đây.” FBI đã vào cuộc điều tra. Vào năm 2005, sau 41 năm, thành viên của Ku Klux Klan (KKK) Edgar Ray Killen bị kết tội ngộ sát trong vụ án này.
 
Stevenson cho biết: “Họ là mối đe dọa vì họ đang thúc đẩy quyền lực chính trị. Họ đều là những người đang đấu tranh cho quyền bầu cử, và mọi người có thể thấy phản ứng dữ dội từ những thế lực chống lại điều đó.

Cung Đô biên dịch
Nguồn: “These Black Americans Were Killed for Exercising Their Political Right to Vote” được đăng trên trang Smithsonianmag.com.
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.
Mục tiêu ban đầu khi Tổng thống John F. Kennedy thành lập USAID trong cuộc chiến tranh lạnh với Nga vào năm 1961, nội các của ông không chỉ nhắm đến các viện trợ dân sự và nhân đạo mà còn mang mục đích sâu xa hơn: Đó là sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác sẽ bảo vệ cho nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Mục đích này vẫn không thay đổi sau hơn sáu thập niên hoạt động của USAID, qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Bởi lợi ích của nước Mỹ nằm khắp thế giới, những sự giúp đỡ, viện trợ trước mắt mang lại lợi ích chiến lược lâu dài cho nước Mỹ. Các nghiên cứu về USAID cho thấy quyền lực mềm của nước Mỹ do USAID đã mang lại thiện cảm về nước Mỹ, giúp hàng hóa, sản phẩm Mỹ được ưa chuộng tại các thị trường nội địa và gián tiếp giúp cho các tập đoàn Mỹ nhận được các hợp đồng kinh tế to lớn so với các đối thủ. Ngược lại, khi thiện cảm này bị mất đi, hay thậm chí bị ghét bỏ, làn sóng tẩy chay hàng Mỹ là lẽ đương nhiên. Những chương trình giáo dục, huấn nghệ cho trẻ em các nước chiến tranh
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.