Hôm nay,  

Được làm vua, thua làm giặc

14/11/202411:20:00(Xem: 2280)
Hoàng Đế Caligula
Vị hoàng đế La Mã này được lịch sử ghi nhớ là một vua chúa tàn độc khát máu và có đời sống trụy lạc. Hoàng đế Caligula không chỉ giết hại dân thường, mà ông còn làm hại cả những người thân cận, bất kỳ ai mà ông coi là mối đe dọa.

 

 

Xưa kia, người đứng đầu cai trị nước gọi là vua, hay hoàng đế, nay kêu là quốc trưởng, hay tổng thống, hay chủ tịch nước.

 

Người đứng đầu một quốc gia, xưa và nay, đều có nhiều mưu sĩ ở bên cạnh để góp ý lo việc quốc gia đại sự, những mưu sĩ đó nay gọi là cố vấn, tham mưu.

 

Khi xưa thì gọi là quân sư, thí dụ đệ nhất quân sư thời Tam Quốc (ở Trung Hoa) là ông Gia cát Lượng, ông là quân sư của Lưu Bị.

 

Ông Gia Cát Lượng là người có tài quân sự, chính trị, kinh tế.

 

Ông cũng là người có đạo đức cao thượng trong sáng, có nhân cách và năng lực giúp vua, giúp đời, an dân hoàn hảo.

 

Những quân sư xa xưa đó thuộc nhiều thành phần có học có hiểu biết trong xã hội. Xã hội gọi họ là học sĩ, sách sĩ, hiệp sĩ… họ có lắm mưu nhiều trí và thỉnh thoảng may ra được một vị vua chiêu hiền đãi sĩ, mời đến góp ý bàn mưu để cai trị nước hay diệt giặc.

 

Các vua chúa, lúc xưa, tuy chiêu hiền đãi sĩ, nhưng họ đâu có thước đo tài, nên các học sĩ muôn làm quân sư cho một minh quân, phải có một vị tài trí uy tín tiến cử. Người giới thiệu phải trọng tài mến đức và không ghen với kẻ được giới thiệu.

 

Tuy may mà có người giới thiệu tiến cử, vẫn rất khó được vua để mắt tới, vì thời nào cũng vậy, là mật ít ruồi nhiều. Tô Tần vào yết kiến vua Tần, phải chầu chực đến nỗi rách cả áo quần, tiêu hết số tiền vàng phòng thân, phải dâng sớ 10 lần mà không có kết quả. Khi đã được thu dụng cũng hiếm khi được trọng dụng.

 

Ngày nay, những kẻ sĩ đi theo góp ý cho tổng thống gọi là những cố vấn hay nhiều cố vấn họp thành ban tham mưu, như ban tham mưu vận động tranh cử của cựu tổng thống Donald Trump, hay ban tham mưu vận động tranh cử của phó tổng thống Kamala Harris mới đây tháng 11 năm 2024.

 

Những nhân vật trong ban tham mưu cố vấn rất quan trọng, họ đánh dấu bước thành hay bại của nhân vật chủ chốt mà họ phục vụ.

 

Lý tưởng, tâm ý của họ dĩ nhiên đồng điệu với minh chủ. Khi xưa, có những bề tôi, những kẻ sĩ theo phò vua chúa của họ suốt đời, khi thành công cũng như khi thất bại.

 

Từ trước công nguyên 551 năm, thời Đông Chu, bên nước Trung , những kẻ sĩ không hẳn phải là những môn đệ của Khổng Tử. Từ trước công nguyên 551 năm, thời Đông Chu, bên nước Trung hoa, những kẻ sĩ không hẳn phải là những môn đệ của Khổng Tử. Nhiều người trong họ chỉ dùng quyền thuật hay tài riêng mà trị dân.

 

Nhưng từ đời Tấn đời Hán, về sau này, thì những kẻ sĩ tài ba này lại đưa chủ trương “tuyển hiền dữ năng“ của Khổng Tử vào xã hội, giúp cho vua tôi và xã hội Trung Hoa bớt đi sự bất bình đẳng, xã hội ôn hòa nhân ái hơn ở xã hội Âu Châu, vì xã hội Âu Châu lúc đó, chỉ có giai cấp quý tộc mới được nắm trọn quyền hành.

 

Thời chiến quốc Trung Hoa, người bình dân có tài đức đã được trao cho những địa vị then chốt trong chính quyền, tới đời Hán thì có lệ dân cử người tài ra lo việc xã hội, rồi việc thi cử được tổ chức theo sau.

 

Nguyên tắc chung là như vậy, nhưng trong xã hội, luôn có những sự kiện cá biệt, có những minh chủ bầy tôi trung thành, mà cũng có những trung thần không được minh chúa ưu đãi, nghe lời; mà còn ám hại. Có những cặp vua tôi xứng đáng tài đức bên nhau, lo việc ích nước lợi dân ; cũng có chúatôi a dua nhau làm việc bất chánh, phản phúc… mà người đời xưa và nay gọi là : được làm vua, thua làm giặc.

 

Về đời Xuân Thu (722-479) chỉ vua Chu mới được gọi là vương, còn các chư hầu dù mạnh, dù làm minh chủ, cũng chỉ gọi được là bá, là công. Thí dụ : Trí Vương gọi là Trí Bá, Tề Hoàn Công, Tần Mục Công (công và bá này đều là vua) nhưng qua đời Chiến Quốc, tình hình chiến sự trở nên gay go hơn, nên vua nước chư hầu nào cũng xưng vương cả, như Hầu Huệ Vương, Tề Uyên Vương, Sở Hoài Vương…

 

Trí vương hay trí bá cũng là một vương chủ thời Chiến Quốc, thống lãnh cai trị Đông Tấn. Sau một thời gian việc binh đao dằng dai, nước Tấn đồng lòng chia thành ba nước: Triệu, Hàn và Ngụy.

 

Nhưng trí bá khởi binh đánh thắng hai họ Phạm và Trung

 

Mấy năm qua đi, Trí Bá sai vài người qua đất Hàn, kể công đòi đất. Vua Hàn là Hàn Khang Tử định không cho, nhưng quân sư Đoàn Quý khuyên vua rằng:

 

Không nên từ chối, vì Trí Bá là con người ham lợi và hung bạo. Hắn sai người vừa xin vừa đòi đất, mà mình không cho, tất hắn mang binh đánh mình. Nhà vua nên cho hắn, để hắn quen mùi, lại đi đòi đất của nước khác, nước khác không chịu, hắn tất đem binh đánh, vậy là nước Hàn tránh được nạn binh đao và đợi chờ xem sự thế biến chuyển ra sao. Hàn Khang Tử đáp:

 

Hay.

 

Rồi sai sứ giả nạp một ấp gồm một vạn nhà cho Trí Bá. Trí Bá mừng rỡ, lại sai người đi đòi đất của nước Ngụy, vua Ngụy là Ngụy Tuyên Tử định không cho, nhưng quân sư can rằng:

 

Hắn đã đòi đất của Hàn, Hàn đã cho, nay hắn đòi đất của Ngụy, mà Ngụy không cho, hắn cho là mình muốn chọc giận hắn, rồi Trí Bá tất đem quân sang đánh Ngụy. Chi bằng vua cho hắn đi.

 

Ngụy Tuyên Tử bằng lòng đáp:

 

Phải.

 

Rồi cũng sai người mang một ấp gồm một vạn nhà dâng cho Trí Bá. Trí Bá tiếp tục sai người qua nước Triệu đòi đất nữa. Vua Triệu là Triệu Tương Tử từ chối. Trí Bá liền liên minh với nước Hàn và nước Ngụy, rủ họ cùng đi đánh nước Triệu.

 

Vua Triệu vời quân sư Trương Mạnh Đàm vô cho hay:

 

Trí Bá là một con người tham lam, lá mặt lá trái, hắn nhiều lần sai sứ giả đi cắt đất. Hàn và Ngụy đã cho, mà quả nhân không cho, thế nào hắn cũng đem binh đánh nước Triệu, giờ mình phải đề phòng làm sao?

 

Quân sư họ Trương đồng ý với vua Triệu. Không cho Trí Bá một mảnh đất. Vua tôi ban hiệu lệnh chống cự Trí Bá. Họ truyền quân lính chuẩn bị các võ khí và ứng chiến.

 

Quân lính của Trí Bá vây hãm thành nước Triệu tới ba, bốn năm. Trong thành người dân phải làm ổ trên cây mà ngủ. Treo nồi lên cao mà đun nấu. Thức ăn dần cạn hết, dân và quân lính ốm đau. Vua Triệu buồn rầu bảo với quân sư:

 

Sức chống cự sắp hết, tôi muốn xin hàng đây, ông nghĩ sao?

 

Quân sư họ Trương trả lời:

 

Tôi nghe rồi, nước sắp mất mà không bảo toàn được, nước Triệu nguy mà không cứu được, thì còn quý kẻ trì trí mà làm gì? Tôi đi đây!

 

Ông đi đâu?

 

Tôi đi yết kiến hai vua Hàn và Ngụy. Nói họ cùng đoàn kết, tìm kế cứu khốn phò nguy cho cả ba nước chúng ta.

 

Nói rồi quân sư Trương tìm cách lén vô gặp hai vua Hàn và Ngụy:

 

Nay Trí Bá tấn công nước Triệu ròng rã mấy năm, thế nước tôi rất lâm nguy. Xin các ông giúp đỡ. Vì nếu nước Triệu tôi mất, sẽ tới lượt nước Hàn và Ngụy đấy.

 

Chúng tôi biết là như vậy, nhưng Trí Bá là con người hung bạo, nóng nảy, tham lam, ít lòng nhân ái.

 

Nếu mưu kế của chúng ta là hợp lại cả ba nước, đánh nhau với Trí Bá, sợ ý đó chưa thực hành được mà họa lớn xẩy đến với chúng tôi.

 

Không hiểu quân sư họ Trương thuyết phục sao đó mà sau Hàn và Ngụy đồng lòng liên kết với quân Triệu, mưu tấn công lại Trí Bá.

 

Trí Bá cũng có người anh em là Trí Quá, đi thăm dò tin tức và cho Trí Vương hay âm mưu của cả ba nước Hàn, Ngụy, Triệu lập một liên minh chống cự.

 

Nhưng Trí Vương không tin người anh em, sợ là sau cuộc chiến, không biết có phân thắng bại hay không, lại sợ rằng mình còn phải chia đất lần nữa cho Trí Quá.

 

Vì tham lam và hung dữ, Trí Vương quyết phá thành, tấn công tiêu diệt Triệu, nhằm mưu đồ thừa thắng lấy luôn hai nước Hàn và Ngụy sau đó.

 

Quân sư Trương Mạnh Đàm ra sức giúp nước Triệu, hiệp lực với quân Hàn và quân Ngụy chống trả Trí Bá. Ngay trong đêm khai chiến, họ Trương mua chuộc được tên quan coi đập nước vây thành, để tháo nước cho nước sông cái tràn vô chỗ quân Trí Vương đóng… nước sông này lúc trước là do Trí Vương sai quân lính đào để dẫn nước sông Tấn vào bao vây thành lũy của Triệu Tương Tử.

 

Khi nước sông Tấn là sông cái tràn vô ào ạt, quân và Trí Vương lo việc cứu thủy mà hỗn loạn rồi đại bại. Quân Hàn, quân Ngụy chia nhau đánh hai bên hông. Quân của Triệu Tương Tử trực chiến đối diện, phá tan tành quân của Trí Vương, Trí Bá, là Trí Vương bị bắt và bị cầm tù.

 

Sau này Trí Bá buồn khổ trong tù mà chết. Trí Bá mất, nước cũng mất, đất cũng bị chia. Thiên hạ cười chê Trí Bá tham lam vô độ, hung hăng ngược ngạo và toan tính ngược lòng trời, ý nói, “được làm vua thua làm giặc.“

 


Phỏng lược theo Chiến Quốc Sách
của các tác giả Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.
Mục tiêu ban đầu khi Tổng thống John F. Kennedy thành lập USAID trong cuộc chiến tranh lạnh với Nga vào năm 1961, nội các của ông không chỉ nhắm đến các viện trợ dân sự và nhân đạo mà còn mang mục đích sâu xa hơn: Đó là sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác sẽ bảo vệ cho nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Mục đích này vẫn không thay đổi sau hơn sáu thập niên hoạt động của USAID, qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Bởi lợi ích của nước Mỹ nằm khắp thế giới, những sự giúp đỡ, viện trợ trước mắt mang lại lợi ích chiến lược lâu dài cho nước Mỹ. Các nghiên cứu về USAID cho thấy quyền lực mềm của nước Mỹ do USAID đã mang lại thiện cảm về nước Mỹ, giúp hàng hóa, sản phẩm Mỹ được ưa chuộng tại các thị trường nội địa và gián tiếp giúp cho các tập đoàn Mỹ nhận được các hợp đồng kinh tế to lớn so với các đối thủ. Ngược lại, khi thiện cảm này bị mất đi, hay thậm chí bị ghét bỏ, làn sóng tẩy chay hàng Mỹ là lẽ đương nhiên. Những chương trình giáo dục, huấn nghệ cho trẻ em các nước chiến tranh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.