Hôm nay,  

Hiện Tượng Doppelgänger: Những Người Xa Lạ Trông Giống Hệt Nhau

15/11/202400:00:00(Xem: 1909)

Hien tuong Doppel
Người chiến thắng trong cuộc thi Timothée Chalamet Lookalike Contest hôm Chủ Nhật (27/10). (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)
 
Hôm Chủ nhật cuối tháng 10, hàng ngàn người đã đổ về Công viên Washington Square Park ở New York để tham gia và theo dõi cuộc thi “Tìm người giống Timothée Chalamet” (Timothée Chalamet Lookalike Contest). Bầu không khí của sự kiện trở nên sôi động hơn nhờ có cả sự xuất hiện của Timothée Chalamet thật và cảnh sát để duy trì trật tự; những hình ảnh từ cuộc thi nhanh chóng được lan truyền trên mạng xã hội, làm dấy lên các tranh luận sôi nổi về việc ai mới là người giống Timothée nhất.
 
Nhưng tại sao lại có nhiều người giống Timothée Chalamet đến vậy?
 
Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, mặc dù những người giống hệt Timothée không có quan hệ huyết thống, nhưng họ vẫn sở hữu các đặc điểm di truyền tương tự nhau. Các khoa học gia còn tin rằng rất có thể mỗi chúng ta đều có “người lạ giống hệt mình” (doppelgänger) ở đâu đó trên thế giới. Tuy nhiên, liệu người có ngoại hình giống hệt Timothée Chalamet cũng sẽ có thần thái cuốn hút và phong cách đặc trưng giống như vậy không?
 
Điểm tương đồng về gene giữa những người lạ giống hệt nhau (doppelgänger)
 
Manel Esteller, nhà di truyền học phân tử tại Viện Carreras Leukaemia Research Institute ở Tây Ban Nha, đã nghiên cứu sự tương đồng về gene giữa những người có ngoại hình giống nhau thông qua bộ ảnh “I'm not a look-alike!” của nhiếp ảnh gia người Pháp-Canada François Brunelle, được thực hiện từ năm 1999. Bộ ảnh này chụp các “cặp song sinh khác phụ huynh” (những người không có quan hệ huyết thống nhưng trông giống nhau) ở khắp nơi trên thế giới.
 
Esteller nhớ lại rằng: “Brunelle từng nghĩ tôi có chút điên rồ, vì thường thì khoa học gia đâu có tìm đến nghệ sĩ làm chi.” Với sự giúp đỡ của Brunelle, Esteller đã liên lạc với các cặp doppelgängers trong bộ ảnh, và những người đồng ý tham gia nghiên cứu đã gửi mẫu ADN của mình ở dạng tăm bông quét miệng (mouth swabs). Sau đó, Esteller cùng các cộng sự mất bốn năm để thu thập và phân tích dữ liệu, và kết quả nghiên cứu được công bố vào năm 2022.
 
Đầu tiên, nhóm nghiên cứu xác định xem cặp doppelgängers nào có độ giống nhau cao nhất. Để đảm bảo tính khách quan, họ sử dụng ba thuật toán phân tích khuôn mặt tương tự như các thuật toán được sử dụng trong hệ thống nhận biết khuôn mặt ở sân bay và sở cảnh sát. Những cặp nào có khuôn mặt giống đến mức thuật toán cũng không phân biệt được sẽ được chọn để nghiên cứu sâu hơn.
 
Nhóm nghiên cứu đã so sánh trực tiếp bộ gen của những người này, cũng như các đặc điểm biểu sinh (epigenome, thứ cung cấp hướng dẫn cho các tế bào da biến thành tế bào da, còn tế bào não trở thành tế bào não, không bị lẫn lộn) và hệ vi khuẩn (microbiome) trên cơ thể họ.
 
Kết quả cho thấy, mặc dù các đặc điểm biểu sinh và hệ vi khuẩn hoàn toàn khác nhau, các cặp doppelgängers vẫn có những phần giống nhau trong bộ gene của mình. Esteller giải thích rằng các chuỗi gene quyết định các đặc điểm như cấu trúc xương, màu da và khả năng giữ nước của cơ thể, đều góp phần tạo nên hình dạng khuôn mặt.
 
Trên những chuỗi gen này có các vị trí đa hình (polymorphic sites), là các điểm trong DNA mà một cặp base (đơn vị cơ bản của DNA) có nhiều biến thể khác nhau phổ biến trong quần thể. Ở trường hợp các cặp doppelgängers, những biến thể đó thường giống nhau.
 
Nghiên cứu cũng đã kiểm tra kỹ lưỡng và đảm bảo rằng những cặp doppelgängers này không hề có mối quan hệ bà con họ hàng nào, và sự giống nhau về ngoại hình của họ là hoàn toàn ngẫu nhiên. Theo Esteller, số cách sắp xếp các đặc điểm để tạo nên một khuôn mặt con người không phải là hữu hạn, mà “dân số toàn thế giới hiện nay rất đông, nên việc xuất hiện những người có nhiều biến thể gene giống nhau là điều dễ hiểu.
 
Ông hy vọng rằng khi đã chứng minh được những người có ngoại hình giống nhau thường có một số gene giống nhau, lĩnh vực chẩn bịnh sẽ có thể sử dụng công nghệ nhận biết khuôn mặt để phát hiện sớm các bệnh di truyền hiếm gặp ở trẻ em.
 
Còn về tính cách thì sao?
 
Nancy Segal, giáo sư tâm lý học tại Đại học California Fullerton và là giám đốc sáng lập Trung tâm Nghiên cứu Song sinh (Twin Study Center), cũng đã sử dụng bộ ảnh của Brunelle để tiến hành một nghiên cứu của mình. Segal tập trung nghiên cứu các cặp song sinh, nhưng khi biết đến dự án nhiếp ảnh của Brunelle, bà nhận thấy cơ hội để giải quyết một tranh luận nhỏ nhưng nổi bật trong giới khoa học.
 
Bà giải thích: “Một số khoa học gia tin rằng tính cách giống nhau ở các cặp song sinh không phải do yếu tố di truyền, mà do cách mọi người đối xử với họ giống nhau dựa trên ngoại hình của họ.” (Vì họ có ngoại hình giống nhau nên mọi người thường có khuynh hướng đối xử với họ giống nhau. Điều này có thể ảnh hưởng và hình thành những nét tương đồng trong tính cách của họ). Nếu quan điểm này đúng, “thì những người không có quan hệ huyết thống nhưng trông giống nhau cũng sẽ có tính cách tương tự như các cặp sinh đôi được nuôi dưỡng trong các môi trường riêng biệt” (không sống chung hay ở gần nhau).
 
Segal đã mời những cặp giống nhau từ các tác phẩm của Brunelle cũng như các cặp bà tình cờ gặp được. Họ được mời làm một bài kiểm tra tính cách Big Five, đo lường năm đặc điểm chính: cởi mở, tận tâm, hướng ngoại, hòa nhã và ổn định cảm xúc. Kết quả của các bài kiểm tra này sau đó được so sánh với kết quả của các cặp sinh đôi, bao gồm cả những cặp được nuôi riêng.
 
Kết quả cho thấy rằng các cặp doppelgängers hầu như không có đặc điểm tính cách giống nhau, trong khi các cặp sinh đôi lại có nhiều điểm giống nhau về tính cách hơn. Mức độ tự tin vào bản thân ở các cặp doppelgängers cũng không giống nhau. Nhìn chung, xét về tính cách, họ thực sự rất khác nhau.
 
Bị thu hút bởi những điều giống mình
 
Nghiên cứu của Segal đã chứng minh rằng các cặp doppelgängers không có sự tương đồng về tính cách như các cặp song sinh. Nhưng nghiên cứu của Esteller cho thấy họ vẫn có thể có những điểm giống nhau ngoài khuôn mặt, chẳng hạn như cách đi đứng, nhờ vào các gen chi phối chiều dài xương.
 
Esteller cho biết thêm: “Một số đặc điểm như nghiện thuốc lá, thuận tay trái hay bị cận thị một phần là do đặc tính di truyền (genetic trait), vì vậy nếu một người trong cặp doppelgänger có những đặc điểm này thì người kia cũng rất có thể sẽ có đặc điểm giống vậy.
 
Nhưng dù ai đó có ngoại hình giống Timothée Chalamet, kể cả dáng đi và giọng nói cũng giống, chưa chắc họ cũng có luôn sức hút và tài năng giống nam minh tinh.
 
Đối với những ai đang tò mò muốn tìm xem mình códoppelgänger không, có nhiều nền tảng trực tuyến hiện nay hỗ trợ tìm kiếm người có ngoại hình tương đồng, chẳng hạn như twinstrangers.net và diễn đàn Reddit /r/Doppelgangers. Tuy nhiên, Segal nhắc nhở rằng: “Nhiều người sẽ thất vọng vì có ngoại hình giống mình không có nghĩa là họ cũng sẽ có tính cách hoặc cuộc sống giống mình.
 
Các cặp doppelgängers trong nghiên cứu của Esteller và Segal đều tham gia từ xa, và không gặp mặt trực tiếp hay phát triển mối quan hệ. Tuy nhiên, con người thường bị thu hút bởi những người có nét giống mình. Segal nhận xét: “Tôi nghĩ điều này thể hiện bản chất con người là luôn khao khát sự tương đồng. Chúng ta thường tìm kiếm những gì hao hao giống mình, thân thuộc với mình, giống như cách trẻ em thường tưởng tượng ra những người bạn ảo giống chúng.
 
Esteller cũng được nghe kể lại là có hai người trong dự án nhiếp ảnh của Brunelle đã kết hôn sau khi gặp nhau. Vậy nên, dù không thắng được giải thưởng 50 MK của cuộc thi tìm người giống Timothée, những người tham gia có lẽ đã nhận được phần thưởng quý giá hơn: tình bạn.
 
Nguồn: “Do you have a twin stranger? The surprising science behind doppelgängers” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.
Mục tiêu ban đầu khi Tổng thống John F. Kennedy thành lập USAID trong cuộc chiến tranh lạnh với Nga vào năm 1961, nội các của ông không chỉ nhắm đến các viện trợ dân sự và nhân đạo mà còn mang mục đích sâu xa hơn: Đó là sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác sẽ bảo vệ cho nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Mục đích này vẫn không thay đổi sau hơn sáu thập niên hoạt động của USAID, qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Bởi lợi ích của nước Mỹ nằm khắp thế giới, những sự giúp đỡ, viện trợ trước mắt mang lại lợi ích chiến lược lâu dài cho nước Mỹ. Các nghiên cứu về USAID cho thấy quyền lực mềm của nước Mỹ do USAID đã mang lại thiện cảm về nước Mỹ, giúp hàng hóa, sản phẩm Mỹ được ưa chuộng tại các thị trường nội địa và gián tiếp giúp cho các tập đoàn Mỹ nhận được các hợp đồng kinh tế to lớn so với các đối thủ. Ngược lại, khi thiện cảm này bị mất đi, hay thậm chí bị ghét bỏ, làn sóng tẩy chay hàng Mỹ là lẽ đương nhiên. Những chương trình giáo dục, huấn nghệ cho trẻ em các nước chiến tranh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.