Hôm nay,  

Hoa Kỳ Đã Muốn Mua Lại Greenland Từ Hơn Trăm Năm Trước

31/01/202500:00:00(Xem: 2569)
 
Greenland
Bắc Cực Quang (Northern Lights) trên bầu trời thị trấn Uummannaq, Greenland. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)
 
Trong hơn một thế kỷ qua, vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên phong phú của Greenland đã khiến hòn đảo này trở thành một trong những mục tiêu tham vọng của Hoa Kỳ, đặc biệt là trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh (Cold War). Nhưng các nhà lãnh đạo Greenland vẫn luôn kiên quyết từ chối những lời đề nghị này. Từ kế hoạch mua lại đất đến các cuộc đàm phán thiết lập căn cứ quân sự, Greenland đã trở thành một trong những hòn đảo được săn đón nhất trên thế giới.
 
Sự quan tâm của Hoa Kỳ đối với Greenland từ những ngày đầu
 
Từ cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ đã bắt đầu để mắt đến Greenland – hòn đảo lớn nhất thế giới không nằm trên lục địa. Lúc bấy giờ, Ngoại trưởng William Seward, sau thành công trong thương vụ mua lại Alaska từ Nga với giá 7.2 triệu MK vào năm 1867, đã nhắm đến Greenland và Iceland như những mảnh ghép hoàn hảo để mở rộng lãnh thổ Hoa Kỳ.
 
Với tầm nhìn chiến lược, Seward đã ủy quyền thực hiện một bản phúc trình vào năm 1868, trong đó nhấn mạnh những tiềm năng to lớn của Greenland về nguồn cá dồi dào, hệ sinh thái động vật hoang dã đa dạng, và đặc biệt là “nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú.” Không những vậy, bản phúc trình này còn táo bạo đề cập rằng việc sáp nhập Greenland có thể gây áp lực khiến Canada (quốc gia nằm giữa Alaska và Greenland) phải cân nhắc gia nhập Hoa Kỳ.
 
Tuy nhiên, Greenland – một vùng lãnh thổ tự trị của Đan Mạch – không phải là một khối băng hoang vu. Qua hàng thế kỷ, hòn đảo này đã là nơi sinh sống của các cộng đồng bản địa, chủ yếu là người Inuit. Trong môi trường khắc nghiệt của Bắc Cực, họ đã thích nghi và phát triển, hình thành những truyền thống lâu đời chủ yếu xoay quanh đánh bắt cá, săn bắn, và gắn bó sâu sắc với mảnh đất này. Đáng tiếc, thuở ban đầu Hoa Kỳ hầu như không tính đến các cộng đồng bản địa, mà chỉ tập trung vào vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên; và nhiều thập niên sau đó vẫn như vậy.
 
Peter Harmsen, một nhà báo tại Copenhagen và là tác giả của cuốn “Fury and Ice: Greenland, the United States and Germany in World War II,” cho biết: “Về cơ bản, mọi chuyện đều quy về hai điều: vị trí địa lý và tài nguyên khoáng sản – và lối suy nghĩ này chưa bao giờ thay đổi.
 
Dù kế hoạch của Seward không thành công, sự quan tâm của Hoa Kỳ đối với Greenland không hề giảm sút. Năm 1910, Đại sứ Hoa Kỳ Maurice Egan đã đề nghị một kế hoạch trao đổi phức tạp: Hoa Kỳ sẽ đổi phần đất tại Philippines để lấy Greenland và Tây Ấn thuộc Đan Mạch. Sau đó, Đan Mạch sẽ đem đổi lại với Đức. Nhưng cũng như lần trước, nỗ lực này lại không đi đến đâu.
 
Vai trò của Greenland trong thời chiến
 
Tầm quan trọng của Greenland đã tăng lên đáng kể trong Thế Chiến II. Sau khi Đức Quốc Xã chiếm Đan Mạch vào năm 1940, Hoa Kỳ ngay lập tức can thiệp để bảo vệ hòn đảo này theo Học thuyết Monroe (Monroe Doctrine) – chính sách nhằm ngăn chặn các nước Âu Châu mở rộng ảnh hưởng sang Tây Bán Cầu.
 
Tháng 4 năm 1941, Hoa Kỳ ký khế ước “Bảo Vệ Greenland” (Defense of Greenland) với đại sứ Đan Mạch, cho phép Washington xây dựng và sử dụng các căn cứ quân sự trên hòn đảo. Greenland còn sở hữu các mỏ cryolite, một loại khoáng chất quan trọng sản xuất ra nhôm để chế tạo phi cơ. Ngoài ra, các trạm khí tượng trên đảo giúp dự báo thời tiết ở Âu Châu, hỗ trợ các kế hoạch của phe Đồng Minh.
 
Sau khi Đức Quốc Xã đầu hàng vào tháng 5 năm 1945, Đan Mạch cho rằng lực lượng Hoa Kỳ sẽ thu xếp để rời đi. Nhưng Hoa Kỳ lại không thể làm vậy. Brent Hardt, một cựu viên chức ngoại giao Hoa Kỳ và hiện là nghiên cứu viên cao cấp tại German Marshall Fund, giải thích: “Vị trí địa lý của Greenland là yếu tố vô cùng quan trọng đối với an ninh của Hoa Kỳ, và chúng tôi phải cố gắng tìm cách ở lại.
 
Sau chiến tranh: tìm cách mua đất
 
Sau Thế Chiến II là một mối đe dọa tiềm tàng mới: Liên Xô. Khi Chiến tranh Lạnh đang manh nha thành hình, giới lãnh đạo quân sự và hải quân Hoa Kỳ lại càng nhận thấy rõ giá trị chiến lược của Greenland. Owen Brewster, cựu TNS bang Maine, gọi việc mua lại Greenland là một “nhu cầu quân sự.” Hòn đảo này không chỉ là điểm trung chuyển hoàn hảo giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, mà còn ẩn chứa nhiều cơ hội cho thám hiểm và nghiên cứu khoa học.
 
Năm 1946, viên chức Bộ Ngoại Giao John Hickerson cho biết các lãnh đạo quân đội Hoa Kỳ coi Greenland là “yếu tố tối quan trọng đối với an ninh quốc gia.” Theo tờ Associated Press, Hoa Kỳ từng bí mật đề nghị trả Đan Mạch khoản vàng trị giá 100 triệu MK để mua trọn Greenland. Một ý tưởng khác cũng được cân nhắc là đem đổi phần đất giàu dầu mỏ ở quận Point Barrow (Alaska) để lấy một phần của hòn đảo.
 
Ron Doel, giảng sư lịch sử tại Florida State University và là đồng biên tập cuốn sách “Exploring Greenland: Cold War Science and Technology on Ice,” cho biết: “Hoa Kỳ không chỉ xem Greenland là một tài sản chiến lược trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, mà cũng muốn trở thành một biểu tượng dân chủ tích cực đối với Âu Châu, luôn giữ vững các giá trị cao cả và tôn trọng quyền độc lập, tự trị của các quốc gia khác.
 
Tuy nhiên, đề nghị mua lại Greenland đã khiến chính phủ Đan Mạch sững sờ. Ngoại trưởng Đan Mạch Gustav Rasmussen phản ứng dứt khoát: “Chúng tôi biết mình nợ Hoa Kỳ rất nhiều, nhưng cũng không đến mức phải trả bằng toàn bộ Greenland.
 
Mong muốn chưa bao giờ nguôi ngoai
 
Năm 1951, để đáp ứng các yêu cầu quốc phòng xuyên Đại Tây Dương trong tình hình Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ và Đan Mạch đã ký một khế ước mới, cho phép Hoa Kỳ tiếp tục sử dụng và mở rộng các căn cứ quân sự trên Greenland. Tất cả các hoạt động này đều được Tổ chức Minh ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty Organization, NATO) chuẩn thuận. Khế ước này nhấn mạnh vai trò của Greenland trong chiến lược phòng thủ xuyên Đại Tây Dương khi tình hình căng thẳng Đông-Tây lên đến đỉnh điểm.
 
Đến những năm 1970, Cơ quan Lưu Trữ quốc gia (National Archives) công bố các tài liệu giải mật, trong đó có tài liệu liên quan đến những nỗ lực mua Greenland sau Thế Chiến II. Nhưng mãi đến năm 1991, báo chí Đan Mạch mới loan tin về những tài liệu này, khơi mào các cuộc tranh luận mới xoay quanh vấn đề chủ quyền của Greenland và tham vọng của Hoa Kỳ.
 
Ngày nay, khi Bắc Cực ngày càng ấm lên, Greenland lại trở nên quan trọng hơn bao giờ hết; bởi vì khi băng ở Bắc Cực tan chảy, không chỉ mở ra các tuyến đường hàng hải mới, mà còn mang đến những nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào chưa từng được khai thác. Tuy nhiên, cả Đan Mạch và Greenland vẫn luôn cương quyết khẳng định: Greenland không phải để bán.
 
Thủ tướng Greenland Múte Egede đăng trên mạng xã hội rằng: “Greenland thuộc về người dân Greenland. Tương lai và con đường giành độc lập của chúng tôi thế nào là việc của chúng tôi.

Nguyên Hòa biên dịch
Nguồn: “The U.S. has tried to buy Greenland before. Here’s how those past attempts went” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.
Mục tiêu ban đầu khi Tổng thống John F. Kennedy thành lập USAID trong cuộc chiến tranh lạnh với Nga vào năm 1961, nội các của ông không chỉ nhắm đến các viện trợ dân sự và nhân đạo mà còn mang mục đích sâu xa hơn: Đó là sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác sẽ bảo vệ cho nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Mục đích này vẫn không thay đổi sau hơn sáu thập niên hoạt động của USAID, qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Bởi lợi ích của nước Mỹ nằm khắp thế giới, những sự giúp đỡ, viện trợ trước mắt mang lại lợi ích chiến lược lâu dài cho nước Mỹ. Các nghiên cứu về USAID cho thấy quyền lực mềm của nước Mỹ do USAID đã mang lại thiện cảm về nước Mỹ, giúp hàng hóa, sản phẩm Mỹ được ưa chuộng tại các thị trường nội địa và gián tiếp giúp cho các tập đoàn Mỹ nhận được các hợp đồng kinh tế to lớn so với các đối thủ. Ngược lại, khi thiện cảm này bị mất đi, hay thậm chí bị ghét bỏ, làn sóng tẩy chay hàng Mỹ là lẽ đương nhiên. Những chương trình giáo dục, huấn nghệ cho trẻ em các nước chiến tranh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.