Hôm nay,  

Những Suy Tưởng Về Bất Bạo Động Trong Một Thề Giới Đầy Bạo Lực

08/06/202015:13:00(Xem: 6150)

Giáo lý Phật giáo và những nguyên tắc liên quan đến việc dùng bạo lực có đề ra như sau:

 

(1) Giới đầu tiên của Phật là cam kết từ bỏ ý tưởng gây tổn hại hay giết bất cứ sinh vật hữu tình nào, dù trực tiếp hay qua trung gian người khác. 

 

(2) Nhấn mạnh đến lòng từ bi bác ái. 

 

(3) Theo đuổi lý tưởng trong một lối mưu sinh liêm chính, một yếu tố trong Bát Chánh Đạo đưa tới Niết Bàn, nhằm ngăn ngừa được cuộc sống gây đau khổ cho tha nhân. 

 

Trong số những hình thức được kể ra về việc mưu sinh bất chính là cuộc sống bằng mua bán vũ khí. Chấp nhận những giới luật này thì chiến tranh và các hình thức sử dụng bạo lực có thể biện minh được không? 

 

Giáo lý của nhà Phật nhắm vào một tình trạng hoàn toàn bất bạo động, dựa trên sự tỉnh thức và nội lực bắt nguồn từ tâm tỉnh lặng. Dẫu cho con người không hề hoàn hảo, khi con người sống trong một thế giới mà người khác mưu tìm lợi thế bằng bạo lực, vì họ phải luôn đối đầu với nghịch cảnh, thì ta có nên đáp ứng lại bằng cách phòng thủ bằng bạo lực không. Chủ trương hiếu hoà có thể là một lý tưởng, nhưng trong thực tế Phật tử thường dùng bạo lực để thủ thân mình hay bảo vệ quê hương, nếu không nói đến việc đôi khi dùng bạo lực tấn công, như bất kỳ nhóm ngưòi nào khác. Phật tử bình thường có thể cảm thấy rằng không thể dùng phương cách bất bạo động một cách tuyệt đối, đặc biệt là khi họ còn bị ràng buộc với quá nhiều thứ mả họ cảm thấy đôi khi mình cần phải sử dụng bạo lực để bảo vệ. Dĩ nhiên, họ có thể tử bỏ tất cả để quy y thành sư tăng, nhưng họ không thể sẳn sàng khấn nguyện cho hết mức độ của mình.

 

Có vài kinh điển đã nói đến chiến tranh và dùng bạo lực để trừng phạt, nhưng tìm cách biến đổi quan điểm thông thường của thế gian là bạo lực cũng đôi khi cần thiết bằng cách là đối thoại với một lý tưởng không dùng bạo lực. Về điểm này, Phật có nói đến mình như một người xuất thân từ giai cấp lãnh chuá. Trong hai bài pháp ngắn, Phật có bình luận về hai cuộc chiến xảy ra khi ác vương A Xà Thế, Ajàtasattu, tấn công vào lãnh thỗ của chú mình là vua Ba Tư Nặc, Pasenadi, cũng là một tín đồ của Ngài, và được coi như là người luôn làm việc thiện.

 

Trong cuộc chiến đấu tiên, vua Pasenadi bị đánh bại và rút lui. Đức Phật có suy nghĩ về sự bất hạnh này và ngài nói rằng: “Chiến thắng gieo thêm hận thù, người bại trận sống trong đau khổ. Hạnh phúc thay cho một đời sống an hoà, từ bỏ đưọc mọi chuyện thắng thua.  Điều này cho thấy rõ rằng sự chinh phục đem lại bi đát cho người thua cuộc mà chỉ đưa tới thù hận và dường như chỉ muốn chinh phục lại kẻ chinh phục.”

 

Trong cuộc chiến thứ hai, vua Pasenadi đã thắng và bắt được vua Ajàtasattu, nhưng ông tha mạng và chỉ tịch thu toàn bộ vũ khí và nắm quân đội. Đức Phật đã luận giải rằng: “Người ta có thể hôi của người để phục vụ cho cứu cánh của mình. Nhưng khi họ hôi của người khác thì người mất của lại hôi của người khác. Cho đến lúc mà quả ác báo chưa chín mùi, thì kẻ điên nghĩ đó chính là cơ hội, nhưng khi ác báo đã đủ rồi thì kẻ điên chịu khổ. Giết người thì sẽ bị người giết lại, chinh phục người thì sẽ bị người chinh phục lại, sỉ nhục người sẽ bị người sỉ nhục lại. Phẫn nộ gây thêm phiền não. Ai lấy của ngưòi sẽ bị người lấy của lại, đó là luật tiến hoá cuả nghiệp báo.” 

 

Điều này chỉ rõ gây hấn chỉ đem tới phản công bằng bạo lực để phòng vệ mà không cần phải biện giải, vì được coi như là quả nghiệp của kẻ tấn công. Khi phản công như thế xảy ra thì không còn cần biện minh nửa. Chính thế mà gây hấn cần ngăn chận. Pasenadi, một người phòng thủ hiếu hoà không thoát được lời chỉ trích. Dĩ nhiên tha mạng của kẻ thù bị đánh bại là một điều tốt, nhưng lại để kẻ thù này không tự bảo vệ được khi không còn quân đội, thì điều này coi như là chất chứa thêm cho bất ổn.

 

Khantipalo đã luận giải như sau: “Chỉ cần tóm tắt sự vô nghiả của chiến tranh nhằm giải quyết xung đột trong hai dòng. Đức Phật thấy được hành vi của vua Pasenadi tóm thâu quân đội của đứa cháu của mình là không hiệu quả. Kết quả là làm khó khăn thêm cho vua Ajàtasattu giải quyết việc chinh phục Kosala, mà vua có thể làm được.” Trong thời đại của chúng ta, việc đòi hòi nước Đức phải bồi thường chiến tranh sau Đệ Nhất thế chiến là một tấm gương tốt khác–Báo thù của chúng ta chỉ lôi keó theo báo thù của họ, như chúng ta đã thấy trong trường hợp Hitler và Đệ Nhị thế chiến. 

 

Kashi Upadhyaya luận giải rằng những đoạn kinh nêu hình ảnh về một ngưòi phòng thủ hiếu hoà chỉ là một là một điều tốt ở một mức độ vừa phải, mà không đạt được lý tưởng của việc hoàn toàn bất bạo động.

Trong khía cạnh khác, Elizabeth Harris nói đoạn kinh trích này cho thấy đây là một sự chấp nhận một thực tại chính trị mà thế giới là một thực tại như thế, vai trò của Pasenadi trong việc gìn giử giang sơn chống lại ngoại xâm được xem là cần thiết và đáng ca ngợi. Có lẽ điểm mấu chốt của vấn đề là khi người ta từ bỏ thành bại thì có còn là nhà vua hay không, hay lại phải quy y thành một nhà sư theo đuổi mục tiêu lý tưởng này. Đoạn kinh này không chỉ rõ. 

 

Harris chắc chắn đã sai lầm khi nói rằng hành vi của Pasenadi là đáng ca ngợi. Ông ta đã mô tả quá đơn giản hành vi trong một chừng mực giới hạn, tùy theo cảm xúc và hoàn cảnh của mình. Ngoài ra, Pasenadi than vãn với Đức Phật về quan tầm trọng vai trò của một vị vua, mà chủ yếu là thúc đẩy những việc như là ham muốn và chinh phục. Đức Phật đã giúp ngài soi lại tâm mình về những việc lương thiện bằng cách nhắc nhở ngài rằng vua cũng như bao nhiêu người khác, vua cũng sẽ chịu vòng lão tử.

 

Dù thế, vấn đề còn lại đối với một vị vua, một Phật tử thuần thành, thì việc cai trị không bằng bạo lực là điều có thể làm được hay không hay lại phải tìm một cách thỏa hiệp một cái gì đó như vua Pasenadi đã làm. Đức Phật ngạc nhiên khi nếu một vị vua trị vì khi dùng Chính Pháp của Phật (công bằng, đức độ và chính trực) được không, không trực tiếp giết người, không gây ra sự giết người, không chinh phục và không gây ra sự chinh phục, không khổ và không gây khố cho ai. Trước khi trả lời câu hỏi của chính mình, ma vương xuất hiện trước ngài và khuyến khích ngài hãy làm như một vị vua. Ngạc nhiên khi thấy ma vương lại khuyên ngài như thế, ngài thấy rằng các vị vua không thể nào tránh được vòng luyến ái, gây phiền não, mà một người phóng khoáng không thể tránh được chiều hướng này. Có lẽ điều này ám chỉ rằng làm vua mà phóng khoáng thì không thích hợp, trong khi đối với mọi nguời thường khác thì quy luật bất bạo động vẫn còn là một điều có thể làm được, dù là nguy hiểm của nhũng lạm do ràng buộc vào lạc dục cần luôn được cảnh tỉnh.

 

Thực ra, Đức Phật có nói rằng chính Ngài là một minh vương, Cakkavatti, không sử dụng bạo lực trong quá khứ. Là vua nhưng dùng bằng Chính Pháp của Phật, là người trị vì tứ phương, là người đã lập được an ninh trong lảnh địa của mình.”Ta đã có hơn một ngàn người tùy tùng mà còn là những anh hùng, những kẻ chinh phục được quân thù. Ta luôn nghĩ đến trần gian được biển vây bọc này, sẽ được chế ngự bằng Đạo Pháp mà không cần có gây gộc hay kiếm cung.”

 

Nói như thế không vì Minh vương Cakkavatti không có quân đội. Theo kinh Minh Vương, Cakkavatti Sihanàda Sutta, sau khi phụ vương Cakkavatti thoái vị để quy y, cũng có vua đề ra quân luật, bằng cách đi tứ phương một với quân đội mình, với những kẻ thù nay muốn thần phục và chấp nhận lời khuyên quy y theo ngũ giới. 

 

Chính thế mà bất bạo động là điều cần thiết. Đó là điều tại sao mà ngài nói ngài cai trị bằng Chính Pháp của Phật để bảo vệ mọi thành phần dân chúng khỏi tội phạm và nghèo đói, và ngài cũng tham vấn các bậc chân tu về những gì gọi là thiện và ác. Dĩ nhiên, liên hệ đến tội phạm hàm chứa sử dụng bạo lực, dù không nhất thiết phải là giết người. Thực vậy, kinh Agganna nói rằng vị vua đầu tiên được chọn lựa trong xã hội con người nhằm để ứng xử với người làm việc sai trái, nhưng chỉ vì với phẩn nộ, sỉ nhục hay xua đuổi của họ mà thôi.

 

Trong những kinh đầu tiên của Phật giáo đã có nói về quy luật bất bạo động. Ngay cả điều này dường như chấp nhận rằng đây là một lý tưởng chỉ có thể phù hợp với bậc siêu phàm. Sau khi nghiên cứu kinh này, Harris cho rằng: 

 

„Điều rõ ràng là cư sĩ không bao giờ đề xuất dùng bạo lực khi đã có hoà hợp hay dùng bạo lực để chống lại kẻ vô tội. Nếu phải bảo vệ mà dùng bạo lực là cách duy nhất, thì họ không hề cố bảo vệ một cái gì không rỏ ràng … Người nào cảm thấy rằng bạo lực dùng để biện minh cho các bảo vệ sinh mệnh của người khác thì nên chú ý đến những hậu quả của nó... Người ta phải nhớ đến những qủa nghiệp nguy hiễm về những hành vi của mình mà mình phải lãnh , không thể tránh được… Những người như thế cần cân nhắc những động lực của mình… Họ phải cân nhắc những nguy hiểm trước mặt nhằm ngăn ngừa điều ác lớn lao hơn.“

 

Phật giáo có thể hiểu được nếu một khi bạo lực được sử dụng, nhưng thật ra không chấp nhận. Điều này có thể tìm thấy trong kinh khi kể đến những hình thức thông minh hơn để tự phòng vệ. Trong phần giảng luận kinh Pháp Cú có kể chuyện một người đàn bà suýt bị chồng giết, ngườì mà bà đã cứu mạng trước kia. Khi người này lập mẹo tìm cách đẩy chồng mình rơi xuống tảng đá nơi bờ biển, một vị thần thấy được và nói rằng bà này khôn ngoan như đàn ông. Nhưng đúng ra thì Phật hay sư tăng nói rằng không hề có một sư chấp nhận trực tiếp nào về hành động có liên quan đén sử dụng bạo lực.

 

Vua Ấn Độ A Dục, Asoka, (268-239 trưóc TC) được Phật tử vinh danh như một tấm gương cho đạo đức xã hội của Phật giáo, một phần vì ông đề cao bất bạo động. Trong khi thúc đẩy dân chúng làm theo điều này và những nguyên tắc đạo đức khác của Phật giáo, tự ông cũng từ bỏ thói quen sử dụng bạo lực trong vương quốc của mình. Thật vậy, trong kinh Manusmrti của Ấn Độ giáo nhà vua phải gây chiến khi ông nghĩ là các thần dân đều đồng ý đây là cách hay nhất để nhà vua mở rộng uy quyền, nhưng kinh Mahàbhàrata nói không có tội ác khi nhà vua giết kẻ thù. 

 

Trong thời kỳ đầu tiên lúc trị vì, trước khi quy y theo Phật giáo, Asoka đã chiếm vùng Kalinga, nhưng pháp dụ ghi trên đá ở Kalinga có ghi laị nổi kinh hoàng về sự tàn sát này đã gây ra. Nhờ thế ông từ bỏ xâm lăng, mặc dù ông vẫn còn là đứng đầu một vương quốc hùng mạnh. 

 

Cho dù vẫn còn nắm giử quân đội và trong một chỉ dụ báo động cho dân vùng biên giới gây xáo trộn, trong khi ông vẫn không thích sử dụng quân đội để chống họ, nếu họ cứ quấy phá, thì trong trường hợp cần thiết ông sẽ dùng bạo lực. Ông giử mục đích mở rộng ảnh hưỏng của vương quốc mình, nhưng luôn tìm cách gởi sứ giả của mình đi để thu phục bằng Chính Pháp của Phật. Ông muốn mở rộng cách cai trị của mình và thành lập các liên minh. Một thí dụ nổi tiếng của việc này là liên kết của ông với Sri Lanka, nơi mà con của ông, cũng là sư Mahinda, truyền bá Phật giáo theo hình thức Phật giáo Nguyên Thủy.

 

Kinh Đại Niết Bàn, Arya satyaka parivarta, có lẽ là kinh Đại Thừa ảnh hưởng bởi sắc dụ của vua A Dục, và từ đó ảnh hưởng lan rộng đến Tây Tạng, dạy rằng nhà lãnh đạo liêm chính phải tìm cách tránh chiến tranh bằng thương thuyết, xoa dịu hay có những liên minh mạnh. Nếu phải bảo vệ xứ sở thì nhà vua phải tìm cách chiến thằng kẻ thù chỉ với mục tiêu bảo vệ dân mình và luôn tâm niệm rằng đây là như cầu bảo vệ mọi sinh mạng, không quan tâm đến cá nhân và tài sản của mình. Bằng cách này nhà vua mới tránh qủa báo của việc chém giết. Trong chiến tranh, nhà vua không thể trút hết oán giận bằng cách đốt cháy thành thị hay làng mạc, phá huỷ các kho chứa, cây trái hay thu hoạch mùa màng, vì đây là đây là tài nguyên chung cho mọi sinh vật hữu tình để sống, mà họ là người vô tội, kể cả những vị  thần địa phương hay thú vật. 

 

***

Peter Harvey, Giáo sư Phật học tại đại học Sunderland, Anh quốc và là Biên tập viên cho tạp chí Journal of Buddhist Ethics và Contemporary Studies in Buddhism. Nguyên tác bản dịch là một trích đoạn của Chapter VI War and Peace, An Introduction to Buddhist Ethics, Cambridge University Press, 2000, 239-285.

Bản dịch là một trích đoạn của Chương I Chiến tranh và Hoà bình, trang 15-21 trong sách Quan Điểm của Phật Giáo Trước Các Vấn Đề Hiện Đại do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017. 

 

 

cover-book_quan-diem-PG-truoc-cac-van-de-hien-dai low res


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đại dịch Covid 19 (ghi chú: do Wuhan Virus gây ra) khiến cả thế giới tiếp tục hồi hộp. Hơn 7,5 triệu người trên toàn thế giới đã bị nhiễm virus corona mới, 185.457 trong số họ ở Đức và các trường hợp nhiễm dịch địa phương xảy ra lặp đi lặp lại. Tất cả các tin tức về cuộc khủng hoảng corona từ Đức, Châu Âu và thế giới có thể được tìm thấy trong bản tin tức FOCUS Online.
Cho dù quý vị sống ở vùng đô thị hay khu vực hẻo lánh, vùng ngoại ô hoặc đang đi thuyền từ cảng này sang cảng khác, việc trả lời Thống Kê Dân Số 2020 hết sức quan trọng đối với cộng đồng của quý vị. Nhưng cộng đồng không luôn là một vị trí địa lý, chẳng hạn như một thị trấn hoặc một khu phố. Điều quan trọng không chỉ là nơi quý vị sinh sống mà còn là quý vị là ai. "Cộng đồng" của quý vị có thể bao gồm những người tương tự như quý vị hoặc đang làm những công việc tương tự như quý vị trong cuộc sống, bất kể họ sống ở đâu.
Bắc Kinh đã đóng cửa hai thị trường vào Thứ Sáu, 12 tháng 6 năm 2020 và trì hoãn sự trở lại của học sinh tiểu học sau khi 3 trường hợp nhiễm vi khuẩn corona mới xuất hiện ở thủ đô - lần đầu tiên sau 2 tháng không bị nhiễm bệnh trong thành phố. Họ làm bùng dậy lo ngại về sự hồi sinh dịch bệnh sau khi Trung Quốc kiểm soát các bệnh lây lan vi khuẩn corona trong nước. Phần lớn các trường hợp trong những tháng gần đây đã được thử nghiệm khi họ từ nước ngoài về nhà. Nhưng chính quyền địa phương đã công bố một trường hợp mới không có lịch sử du lịch gần đây bên ngoài thủ đô vào Thứ Năm, tiếp theo là 2 trường hợp nữa vào Thứ Sáu.
Chính phủ Trump hôm Thứ Sáu, 12 tháng 6 năm 2020 đã hoàn tất một quy định sẽ loại bỏ các biện pháp bảo vệ không phân biệt đối xử với người đồng tính nam và nữ, lưỡng tính, và chuyển giới (LGBTQ) khi nói đến chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế. "Bộ Y Tế Và Dịch Vụ Nhân Đạo Hoa Kỳ (HHS) tôn trọng phẩm giá của mỗi con người, và như chúng tôi đã thể hiện trong phản ứng của chúng tôi trước đại dịch, chúng tôi mạnh mẽ bảo vệ và thực thi các quyền dân sự ở mức độ tối đa được luật pháp của chúng ta cho phép khi được Quốc Hội thông qua," theo Roger Severino, người chỉ đạo Văn Phòng Quyền Dân Sự trong Bộ Y Tế và Dịch Vụ Nhân Đạo, trong văn bản tuyên bố rằng quy định của HHS đã trở thành quyết định cuối cùng. Quy định này được thiết lập để có hiệu lực vào giữa tháng 8.
Bắc Hàn hôm Thứ Sáu, 12 tháng 6 năm 2020 cho biết họ đã từ bỏ các nỗ lực theo đuổi mối quan hệ ngoại giao với Bạch Ốc vì 2 năm sau cái bắt tay lịch sử giữa Tổng Thống Donald Trump và Kim Jong Un "thậm chí là một tia lạc quan" cho hòa bình và thịnh vượng trên bán đảo Triều Tiên đã "biến mất vào một cơn ác mộng đen tối." Tuyên bố của Bộ Trưởng Ngoại Giao Bắc Hàn Ri Son Gwon, được công bố trên truyền thông nhà nước, thể hiện dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy Bình Nhưỡng dường như đã từ bỏ việc cải thiện quan hệ với chính quyền Trump và làm việc hướng tới "phi hạt nhân hóa hoàn toàn Bán Đảo Triều Tiên." Nhóm chữ này hình thành nên cơ sở của một thỏa thuận mơ hồ giữa Trump và Kim Jong Un khi hai nhà lãnh đạo bắt tay trong hội nghị thượng đỉnh được biên đạo kỹ lưỡng tại Singapore vào ngày 12 tháng 6 năm 2018.
Chính quyền CSVN lại bắt thêm một nhà báo trong Hội Nhà Báo Độc Lập tại VN là ông Lê Hữu Minh Tuấn hôm 12 tháng 6 năm 2020 tại Sài Gòn và hiện đang giam tại Trại Giam Chí Hòa, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do (RFA) cho biết hôm Thứ Sáu.
Dân Biểu Harley Rouda (Địa Hạt 48) đã có thông báo sau đây về quyết định của Thống Đốc Gavin Newsom cho phép những tiệm nail và các dịch vụ chăm sóc cá nhân khác mở cửa vào ngày 19/06/2020. “Tôi xin cảm ơn Thống Đốc đã đưa ra hướng dẫn công nghiệp và đồng ý cho tiệm nail mở cửa lại vào tuần tới”. Ông Rouda nói. “Những người thợ làm móng của California, gần ¾ trong số này người Mỹ gốc Việt, xứng đáng với sự cho phép và minh bạch như những ngành chăm sóc cá nhân khác. Tôi sẽ tiếp tục làm việc với những lãnh đạo doanh nghiệp Quận Cam và đội ngũ nhân viên của Thống Đốc để bảo đảm rằng những tiệm nail sẽ cung cấp một môi trường sạch sẽ và an toàn cho nhân viên và khách hang.”
Sau một thời gian điều tra, công an Hà Nội đã công bố kết luận cho rằng dân Đồng Tâm có kế hoạch tiêu diệt công an, theo bản tin của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) hôm 12 tháng 6 năm 2020 cho biết.
Vào thứ ba, ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại cuộc họp Hội đồng thường lệ, Hội đồng Chưởng quản của Khu Đại học Cộng đồng Rancho Santiago đã bỏ phiếu để bổ nhiệm Ph.D. Marilyn Flores làm hiệu trưởng lâm thời trường Đại học Santa Ana từ ngày 1 tháng Bảy. Flores đã từng làm hiệu phó về các vấn đề học thuật và phụ trách điều hành trong khi trường Đại học Santiago Canyon không có hiệu trưởng kể từ năm 2016. Bà sẽ đảm nhiệm vai trò đang bị bỏ trống khi Tiến sĩ Linda Rose nghỉ hưu.
Hôm nay, Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg và Dân Biểu Tyler Diệp đã đưa ra lời tuyên bố sau đây liên quan đến việc mở cửa lại các tiệm Nail ở California. Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg và Dân Biểu Tyler Diệp đã cùng một liên minh lưỡng đảng bao gồm 8 nhà lập pháp đại diện các cư dân Orange County tham gia thảo luận với văn phòng Thống Đốc Gavin Newsom nhằm kêu gọi cho phép mở cửa lại các tiệm Nail tại Californai. Quý vị dân cử này đã nêu yêu cầu chính thức của họ trong một bức thư gửi cho Thống Đốc Newsom vào đầu tuần nay. Và hôm nay, một tin vui đến với chúng ta – Thống đốc Newsom đã công bố mở cửa lại các tiệm Nail sẽ bắt đầu hiệu lực từ ngày 19 tháng Sáu.
Sau khi đóng cửa kể từ tháng Ba để giúp ngăn chặn sự lây lan của COVID-19, Chánh Lục Sự Hạt Orange Hugh Nguyễn rất vui mừng thông báo việc mở lại các văn phòng của mình cho công chúng có hiệu lực kể từ thứ Tư, ngày 10 tháng 6 năm 2020. Văn phòng sẽ cung cấp tất cả các dịch vụ của mình đồng thời thực hiện các hướng dẫn giữ khoảng cách bảo đảm an toàn cho nhân viên và công chúng. Các dịch vụ sẽ tiếp tục bình thường tại văn phòng chi nhánh của quận bắc ở Anaheim, văn phòng chi nhánh quận Nam ở Laguna Hills, tại Old County Courthouse ở Santa Ana và tại tòa nhà County Administration South tại Civic Center Plaza ở Santa Ana. Văn phòng ở Westminster sẽ vẫn đóng cửa cho đến khi có thông báo mới.
Xét về cao độ thì Sơn Núi (Nguyễn Đức Sơn) ở thấp hơn nhiều bạn đồng nghiệp của mình – như Bùi Minh Quốc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh, Tiêu Dao Bảo Cự… – xa lắc. Những nhân vật này đều có thời là biên tập viên của tạp chí Lang Biang, tờ báo (đã bị đóng cửa) này lấy tên theo vùng cao nguyên lâm Viên mà họ đang sinh sống. Đỉnh Lâm Viên, ở Đà Lạt, cao hơn hai ngàn mét lận. Từ đây, muốn leo lên trời (để đái, hay làm gì tùy thích) còn tiện hơn nhiều. Ngoài lợi thế nhỏ nhặt này ra, những cư dân ở miền sơn cước gặp phải toàn là những điều (vô cùng) bất tiện. Họ xa cách (mịt mù) với thế giới văn minh, ở những đô thị miền xuôi. Tôm cá hì hục chở lên đến được đến cao nguyên (thường) đã bị ươn, và thông tin khi nhận được thì (ôi thôi) hoàn toàn đã cũ.
Theo bản tin của ABC 7 EyeWitness News ra ngày 11 tháng 6, năm 2020, Bác sĩ Nichole Quick, Giám Đốc Y Tế của Quận Cam đã từ chức vào tối thứ Hai, 8 tháng 6, vì các lời chỉ trích bà về việc bà ra lệnh bắt buộc mang khẩu trang trong lúc các cơ sở thương mại bắt đầu mở cửa trở lại. Theo bản tin của Voice of OC, Giám Sát Viên Michelle Steel and Don Wagner đã chất vấn BS Nick Quick nhiều câu hỏi liên quan đến lệnh đeo khẩu trang trong buổi họp của Hội Đồng Giám Sát trước khi BS Quick từ chức.
Bệnh Chân Lực Sĩ athlete’foot là bệnh rất thường xẩy ra ở mọi người và thường thấy ở các khe ngón chân.Nguyên nhân là các loại nấm.Bệnh thường thấy ở con trai chưa tới tuổi dậy thì. Ở người trưởng thành, cứ sáu người nam thì một người nữ mắc bệnh, nhưng nguyên nhân là do thói quen không đẹp chứ không phải vì sinh học.
Thủy sản có thể bị nhiễm khuẩn Salmonella,Vibrio vulnificus, Vibrio parahaemolyticus hiện diện trong nước bẩn. Virus norwalk (Norovirus) cũng là một vấn đề quan trọng ở sò hến tại Bắc Mỹ. Rối loạn tiêu hóa, đau bụng, tiêu chảy là những biểu lộ thông thường sau khi dùng phải thực phẩm có chứa những mầm bệnh vừa kể. Ngoài ra sò hến cũng có thể bị nhiễm virus viêm gan A (hepatitis A).
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.