Hôm nay,  

"Bond" Là Gì

01/08/202019:04:00(Xem: 6023)

Vừa bước vào xe để cô con Út đưa đi bác sĩ, ông Kiên vừa đùa:

-Dữ hôn! “May” mà Ba có hẹn với bác sĩ Ba mới được gặp con!

Út phải đáp nửa Tây nửa Ta, vì Út đến Hoa Kỳ từ khi còn bé:

-Ba cứ như vậy cho nên mấy anh chị không ai muốn gặp Ba.

-Trời đất! Ba làm gì mà mấy anh chị không muốn gặp Ba?

Vừa sang số xe, Út vừa đáp:

-Mỗi lần gặp Ba, Ba cứ “nag” như vậy ai mà muốn gặp!

-Con à! Ba vẫn có thể lái xe đi bác sĩ được. Nhưng vì dạo này Covid-19 “tung hoành” quá, con làm việc online chứ không phải vô sở – và cũng vì Ba muốn gặp “cô gái Út của Ba” – cho nên Ba mới nhờ con. Con đừng “cự nự” Ba!

-Con không “cự nự” Ba. Con chỉ nói rằng Ba không nên “nag” tụi con.

Im lặng. Không hiểu vì muốn “làm hòa” với con hay là vì lâu ngày không được nói tiếng Việt, ông Kiên lại gợi chuyện:

-Anh chị của con và mấy cháu khỏe không?

-Dạ khỏe.

-Lâu quá Ba không gặp được đứa nào cả.

Im lặng. Bất chợt, không hiểu tại sao ông Kiên lại liên tưởng đến cái chết cô đơn của bà Margaret Thatcher– một phụ nữ đầy uy quyền của nước Anh – ở khách sạn Ritz, tại Piccadilly, Anh quốc, năm 2013. Bà Thatcher chết tại khách sạn không phải vì bà du lịch, ở lại khách sạn rồi chết đột ngột mà chỉ vì bà không thể bước lên cầu thang trong dinh thự của bà, đành phải đến ở khách sạn của một người ái mộ bà để bà được chăm sóc hằng ngày. Ông Kiên hỏi:

-Út! Ba nhớ dường như lúc bà Thatcher chết, báo chí bàn tán về thái độ thờ ơ, lạnh nhạt của hai người con của bà ấy đối với bà ấy. Đúng không, con?

-Con đâu có thì giờ để lưu tâm mấy chuyện đó. Ba hỏi để làm gì?

-Vì Ba nhớ dường như báo chí bảo hai người con của bà Thatcher bảo rằng giữa bà Thatcher và hai người con không có cái “bond”. Hai người con không có được những vòng tay ôm – “hug” – của Mẹ.

-Đúng rồi! Nếu bà Thatcher không có cái “bond” với con của bà ấy thì con của bà ấy lạnh nhạt với bà ấy là đúng!

Ông Kiên nghẹn lời! Cuộc đời của ông – một sĩ quan tác chiến – gắn liền với chiến trận nhiều hơn là thời gian về phép thăm vợ con. Sau 1975, ông lại bị cộng sản Việt Nam (csVN) cầm tù suốt thời gian dài thì làm thế nào ông có thể tạo được cái “bond” giữa các con và ông? Ông Kiên hỏi:

-“Bond” là cái gì mà khi không có “bond” thì tình Cha con, Mẹ con bị rạn nứt, Út?

-Không có “bond” không có nghĩa là tình Cha con, Mẹ con bị rạn nứt. Tiếng Việt của con “nghèo”. Nhưng con nghĩ chữ “bond” có thể tạm dịch là “khắn khít”.

Chợt nhớ đến Mẹ của Út –  vợ cũ của ông Kiên – ông Kiên hỏi:

-Nếu con nói như vậy thì trường hợp của Mẹ – người đã cực khổ, tảo tần nuôi các con ở kinh tế mới rồi đưa các con vượt biển sang đây – có được cái “bond” hay không? Nếu không có “bond” thì tại sao? Nếu có “bond” thì lý do nào Mẹ của con phải sống thui thủi một mình trong senior living sau khi thằng Niên bỏ đi? 

-Tại sao mỗi khi đề cập đến Mẹ thì Ba lại “lôi” chú Niên ra và Ba có vẻ cay đắng? Chú Niên là người tốt. Chú Niên bỏ đi – ngay sau khi Ba sang Mỹ theo diện HO – không phải chú hết thương Mẹ mà chỉ vì chú Niên muốn để Ba Mẹ sum họp. Nhưng Ba chỉ vì sĩ diện, không chấp nhận Mẹ. Ba biết Mẹ phải cơ cực như thế nào ở kinh tế mới khi Ba ở tù cộng sản và trên xứ Mỹ này để cho tụi con được như ngày hôm nay hay không? Ba tưởng, trên xứ Mỹ, một người đàn bà với năm đứa con dại, trong tay không có tiền, dễ sống lắm hay sao?

-Ba không cay đắng với thằng Niên mà Ba chỉ tiếc cho Mẹ của con. Thời điểm đó Mẹ con còn trẻ, đẹp, có học. Thà Mẹ lấy Mỹ, hay một người nào khá hơn một tý, Ba không trách. Đằng này…

-Chuyện tình cảm Ba không thể đo lường, cân, đong. Ba nói đúng! Mẹ có nhiều ưu điểm. Nhưng những ưu điểm của Mẹ kèm với năm đứa con thơ và sự nghèo khó thì không người đàn ông nào có trình độ tương xứng với Mẹ muốn “nhào” vô! 

-Chính phủ Mỹ có chương trình trợ giúp gia đình nghèo nuôi con mà.

-Lúc đó làm thế nào Mẹ biết được có chương trình food stamps and housing assistance? Vã lại, như Ba nói lúc nãy, Mẹ có học, tại sao Mẹ không tự đứng trên đôi chân của Mẹ mà Mẹ phải nhờ chính phủ Mỹ? Mẹ phải thể hiện tinh thần tự lập của Mẹ chứ!

-Có tinh thần tự lập thì tại sao phải lấy thằng Niên? Con biết gốc gác thằng Niên mà.

-Ba! Tụi con biết chú Niên là thuộc ấp của Ba. Nhưng người thuộc cấp đó, ngày trước từng lo cho Ba rất chu đáo, từng vui đùa với tụi con. Sau này gặp lại Mẹ và tụi con bơ vơ nơi xứ lạ, cũng chính người thuộc cấp đó giúp Mẹ lo cho tụi con. Nếu không có người thuộc cấp cũ của Ba thì chẳng có đứa con nào của Ba có thể theo học đại học được! Còn Mẹ, dù là một người nặng tinh thần tự lập, Mẹ cũng không thể kiêm luôn công việc của một  handyman! Mẹ không thể cả tuần phải làm hai việc rồi về nhà nấu cơm, đi chợ, cắt cỏ, sửa ống nước, thay bóng đèn, thông nhà cầu, thay dầu xe, rửa xe, v.v…

-Còn mấy thằng anh của con để làm gì?  

-Lúc đó tụi con còn nhỏ, Mẹ lại cứ ép tụi con phải học. Thấy chú Niên phụ giúp Mẹ tụi con mừng cho Mẹ. Sau khi xong trung học, mấy anh chị phải học nghề để phụ với Mẹ gửi tiền về Việt Nam giúp ông bà Nội – và nhờ các cô chú đi tăm nuôi Ba – giúp ông bà Ngoại; còn mấy đứa nhỏ như con thì phải đi học xa.

-Nếu con biết Mẹ của con cực khổ như vậy, tại sao các con không dành cho Mẹ nhiều tình thương?

-Ba! Tụi con để Mẹ – cũng như Ba – vô senior living cho được an toàn chứ không phải tụi con không thương Ba Mẹ.

-Lúc nãy con nói Mẹ có tinh thần tự lập tại sao không đứng trên đôi chân của Mẹ. Bây giờ Ba hỏi con: Mẹ tảo tần nuôi các con khôn lớn, tại sao bây giờ các con chối từ bổn phận của các con để đưa Mẹ vô senior living do chính phủ trợ giúp?

-Ba! Senior living là một nơi đầy đủ tiện nghi để cho người lớn tuổi sống một cách thoải mái, tự do chứ senior living không phải là nhà tù! Lý do chính phủ trả giúp phần nào là vì tiền hưu của Ba Mẹ không đủ trả. Đó là luật. Số tiền chính phủ trả giúp phần nào cho Ba Mẹ ở senior living có thể đến từ tiền thuế của tụi con. 

-Lúc nãy con vừa tỏ ý tán đồng về việc hồi trước Mẹ không xin trợ cấp của chính phủ; bây giờ con lại bảo chính phủ trợ cấp một phần tài chính cho Ba Mẹ sống trong senior living là luật. Như thế con có tự mâu thuẫn hay không?

-Con không tự mâu thuẫn. Ngày Mẹ và tụi con mới đến Mỹ, chưa ai trong gia đình đóng thuế income tax cho cơ quan IRS – Internal Revenue Service. Bây giờ Ba biết mỗi năm vợ chồng con phải đóng bao nhiêu tiền thuế cho IRS hay không?

-Nếu con lý luận senior living là một nơi cung cấp nhiều tiện nghi cần thiết chứ không phải là nhà tù thì con hãy nhớ lại, ngày Ba đi tù, csVN tịch thu nhà, đuổi Mẹ và các con đi kinh tế mới. Lúc đó Mẹ khổ như thế nào mà Mẹ cũng không nỡ đem các con giao cho viện mồ côi – nơi cung cấp cho trẻ em cuộc sống khá hơn nhiều so với cuộc sống ở kinh tế mới – Con nghĩ đi?

-Con nghĩ, lúc ở kinh tế mới, giữa Mẹ và tụi con đã có cái bond ràng buộc.

-Thế thì lý do nào cái bond đó rã ra? 

- Cái bond giữa Mẹ và tụi con rã ra vì: Thời gian ở kinh tế mới, dù không quen cuộc sống cơ hàn, đói khát nhưng Mẹ vẫn phải mót lúa, mót khoai, buôn đầu nọ bán đầu kia, bỏ tụi con ở nhà suốt ngày. Sang Mỹ – trước khi gặp lại chú Niên – Mẹ làm hai việc. Năm giờ sáng Mẹ phải thức dậy nấu cơm, làm đồ ăn sẵn cho tụi con rồi Mẹ đi làm đến một giờ đêm Mẹ mới về! Tụi con không gặp được Mẹ, không nhận được cái “hug” nào của Mẹ.

-Người Á Đông mình, khi con còn bé thì Cha Mẹ hôn và bồng, bế; nhưng khi con lớn, Cha Mẹ không “hug” con như người Âu Mỹ.

-Con hiểu. Nhưng, cái mà tụi con không hiểu được là tại sao mỗi khi tụi con phạm lỗi gì thì Mẹ đánh tụi con không nương tay, mắng nhiết tụi con không tiếc lời? Những lúc đó, tụi con có cảm tưởng như là Mẹ muốn trút tất cả phẫn hận, tất cả đau khổ và bất hạnh của đời Mẹ lên người của tụi con!

-Con nên biết rằng trên đời không ai thương con bằng Mẹ! Người Việt mình có câu “Thương cho roi cho vọt; ghét cho ngọt cho ngào”. Nhưng, thời đi học, Ba thoáng đọc đâu đó câu này: "Trong vũ trụ có lắm kỳ quan nhưng kỳ quan đẹp nhất vẫn là trái tim của người mẹ". Và Ba nghĩ rằng Mẹ nặng lời hoặc dùng roi vọt với các con là chỉ với mục đích dạy bảo các con nên người chứ không bao giờ Mẹ có ý định ghét bỏ các con.

Những lời của ông Kiên làm cho Út cảm thấy nặng nơi lồng ngực như các tĩnh mạch đang bị thắt lại. Nếu đúng như lời giải thích của Ba thì Mẹ đáng thương biết dường nào! Mẹ chỉ là nạn nhân của sự giáo dục nệ cổ!

Nhận ra sự xúc động trên nét mặt của Út, ông Kiên hỏi:

-Khi “bond” đã rạn vỡ, mình có thể hàn gắn lại được không, con?

-Dạ được.

-Nếu muốn hàn gắn cái “bond” đã rạn nứt với các con thì những người già như Ba Mẹ phải hành động như thế nào?

-Muốn tạo dựng lại điều gì, bất cứ về tình cảm hay là vật thể, người ta thường tận dụng những điều như tay chơi tennis trứ danh của Mỹ – Arthur Robert Ashe, Jr – đã nói: “Start where you are. Use what you have. Do what you can.”

-Nếu nói như Arthur Robert Ashe Jr. thì những người “rơi” vào trường hợp như Ba Mẹ, mỗi khi cần hoặc nhớ con, gọi điện thoại thăm con thì phải để lại lời nhắn chứ ít khi được nói chuyện với các con. Ngoài ra không còn một phương tiện nào khác để Ba Mẹ được thường xuyên gặp và nói chuyện với các con. Như vậy thì làm thế nào những người già như Ba Mẹ có thể tạo dựng lại cái bond đã tan rã?

-Ba Mẹ cứ muốn tụi con có sự nghiệp vững vàng thì chính cái sự nghiệp đó nó chiếm toàn thời gian của tụi con. Còn câu hỏi của Ba, không ai có thể giải đáp được!

-Đa số người già trên xứ Mỹ đều bị hành xử như các con đã đối xử với Ba Mẹ mà tại sao không ai có thể giải đáp được câu hỏi rất đơn giản của Ba?

-Dad! That’s just the way it is.

Im lặng! Ngày xưa, được tin vợ con của ông vượt biển, ông Kiên lo buồn, nhưng lòng vẫn hy vọng sẽ có ngày được gặp lại. Bây giờ, sau khi nghe những lời bộc trực của đứa con cưng, ông Kiên mới thật sự nhận ra được khoảng cách giữa ông và các con mà – từ khi đến Mỹ – ông cứ cố tình chối bỏ!

ĐIỆP MỸ LINH
https://www.diepmylinh.com/ 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.