Hôm nay,  

Nhà Ông Huie

04/09/202110:55:00(Xem: 3400)

 


Trời đang nóng nực oi bức, không khí căng như trong nồi áp suất, rừng cây im phăng phắc không một tí lay động, dù là những cái lá tận ngọn. Thế rồi bầu trời bất chợt kéo mây vần vũ dần dần chuyển sang xám xịt, những giọt nước lắc rắc rơi xuống. Thời tiết những ngày tháng sắp chuyển mùa thất thường quá đỗi, chợt nắng chợt mưa, lúc nóng hầm hập khi thì chợt dịu như thể mùa thu đã về. Thời tiết như vậy làm cho con người cũng uể oải mệt mỏi theo. Với Steven thì những khi cảm thấy uể oải thì chỉ cần chạy bộ vào dặm là lập tức khỏe khoắn ngay. Steven vốn bản chất là con người hoạt động, ít khi nào chịu ngồi yên.

 Chiều nay Steven chạy bộ ở cung đường quen thuộc ở trong công viên này, cả công viên này rộng đến hai trăm mẫu tây. Trước đây nó vốn là điền trang của nhà họ Huie Reynald. Điền trang này có từ trước cuộc nội chiến năm xưa, sau này gia tộc họ Huie Reynald hiến tặng lại cho quận để làm công viên. Steven vẫn thường chạy bộ ở đây, có thể nói là Steven thuộc cả khu này như lòng bàn tay, thậm chí nhắm mắt Steven vẫn có thể đi khắp các lối mòn trong công viên. Steven đến đây mỗi tuần, vui cũng đến, buồn cũng tới, không buồn không vui cũng ghé chơi. Chiều nay vừa chạy được hai dặm thì trời đột nhiên chuyển mưa, mặc dù trước đó không có dấu hiệu gì sẽ có mưa, tin thời tiết cũng chẳng bảo có mưa, ấy vậy mà mưa đã xảy ra. Steven chạy hết tốc lực về hướng hàng hiên của ngôi nhà để trú mưa Hàng hiên ngôi nhà khá rộng, có một để một bộ xích đu và hai cái ghế bập bênh. Ngôi nhà trắng xinh xắn, kiến trúc kiểu thời thuộc địa vẫn còn giữ nguyên vẹn, dù đã tu bổ sửa sang nhiều lần. Steven đứng tựa ban công nhìn quanh quất, đột nhiên thấy cái ghế bập bênh chuyển động như thể có người đang ngồi, lúc đâu Steven không thấy lạ, nhưng chừng giây lát là chột dạ ngay:

“Quái lạ, sao cái ghế tự nhiên bập bênh?” nghĩ thế rỗi Steven quan sát xem thử gió hay có lực nào tác động vào không, tuyệt nhiên không có gì tác động vào cả, gió hiu hiu rất nhẹ không thể làm cho hai cái ghế lắc lư được. Bây giờ thì Steven thấy hơi rờn rợn, quay qua nhìn thẳng vào hai cái ghế thì nó ngưng hẳn lại. Từ bên trong ngôi nhà ánh đèn chợt tắt sáng mấy lần. Steven dán mắt qua lớp cửa kiếng, bên trong cảnh vật bày trí vẫn bình thường, những con thú nhồi bông bày biện khắp nơi. Ngôi nhà của ông Huie năm xưa giờ đã là một phòng trưng bày những tiêu bản các loài động vật và thực vật của vùng đất này.

 Một con cú to lớn màu trắng, đột nhiên quay đầu nhìn Steven, đôi mắt nó tròn đen như hai hột nhãn, cứ như ai đó gắn vào cái mặt bẹt của nó, cái nhìn lạnh tanh mà xoáy vào lòng người ta. Steven nổi da gà, nỗi sợ bắt đầu len lỏi từng tế bào, luồng sóng lạnh lan tỏa từ thần kinh trung ương đi khắp thân. Steven thoáng nghĩ: ”Con cú  nhồi bông không thể cử động được? mình đã nhìn nó bao nhiêu năm nay rồi cơ mà”. Lòng tự nhủ nhưng vẫn nán lại xem thử sao, vả lại trời bắt đầu mưa to nên không thể ra bãi đậu xe được. Steven cũng có ý nghĩ hay là mình hoa mắt hoang tưởng? Có khi nào vì chạy bộ mệt lại gặp thời tiết xáo trộn nên sanh ảo giác chăng? Không cần nghĩ ngợi lâu, trước mắt Steven thấy rõ mồm một, con rắn đen với những khoanh vằn vện to bằng cườm tay, nó đang trườn và quấn quýt quanh cành cây khô, nơi mà nó được định vị vào từ lâu. Mắt nó cũng đen nhưng cái màu đen bóng và hun  hút như lỗ đen, cái lưỡi nó phì phò le ra dài và chẻ hai. Trông con rắn đầy vẻ đe dọa. Steven lùi lại một chút, chỉ trong phút chốc là tất cả những tiêu bản rắn khác đồng loạt ngo ngoe vung vít  dường như chúng muốn thoát khỏi những cái giá trưng bày.

 Steven thật sự sợ, lùi tí nữa thì dừng vì nếu lùi nữa thì vượt ra khỏi mái hiên và sẽ ướt mưa. Trời mưa to như trút nước, bầu trời đen kịt, nước mưa ào ạt xối xả, gió thổi rần rật, gió cuốn nước mưa quất những luồng roi ràn rạt, sấm động ầm ì vọng xuống rền rĩ, những lằn chớp rạch trên nền trời, những tia chớp phóng thẳng xuống đỉnh đồi xa xa. Một con quạ đen to lớn bay vần vũ kêu quang quác đậu trên mái nhà. Steven nổi gai ốc cùng mình, giờ thì nó biết chắc là không phải hoang tưởng hay ảo giác, giờ này cả công viên không có một bóng người, từ hàng hiên này đến bãi đậu xe cũng khá xa. Steven toan chạy ra xe, theo thói quen, nó thọc tay vào túi quần để lấy chìa khóa để khởi động máy xe từ xa, khốn thay, túi quần trống trơn, mấy ngón tay chạm phải đùi của mình, thì ra túi quần bị rách từ khi nào mà Steven không biết, và chìa khóa xe đã rơi tự khi nào. Steven bấn loạn lên, cái sợ xâm nhập tâm tư, tay nó bắt đầu run rẩy, môi lắp bắp:” Chết tiệt, sao lại đễnh đoảng để rơi chìa khóa xe thế này!”. Giây phút thật cân não, biết tính sao đây? Đứng lại thì ghê quá mà chạy ra xe thì không có chìa khóa xe, trời thì mưa như trút nước. Còn quýnh quáng chưa biết làm sao thì ánh đèn trong căn nhà lại chớp tắt liên hồi, qua ánh sáng chớp tắt ấy, Steven thấy bóng dáng một người đàn ông đứng tuổi, mặc bộ complet đuôi tôm kiểu quý tộc thời xa xưa, bộ mặt như làm bằng sáp, bộ ria rậm rạp nhưng tỉa tót cẩn thận, hai chóp ria cong vút lên, bộ râu rìa dày và dài. Cái bóng người đàn ông ấy nhìn Steven chằm chặp. Steven vốn quen biết với mấy người phụ trách ở công viên này đã lâu, chưa bao giờ nhìn thấy người đàn ông này, khi không lại xuất hiện trong căn phòng trưng bày những tiêu bản động thực vật ở đây? Cái bóng dáng người đàn ông này có vẻ quen quen, dù không nhớ ra nổi. Nỗi sợ đang làm cứng người nhưng Steven liên tưởng ngay “Đất cũ người xưa”. Steven chợt nghĩ đến tấm biển lịch sử của Huie Reynald có ghi tiểu sử và hình ảnh ông Huie mà Steven đã đọc và thuộc lòng. Không còn nghi ngờ gì nữa, co giò chạy thục mạng, mặc cho nước mưa quất vào mặt, mặc cho sấm đì đùng trên đầu. Steven quyết phải chạy ra tới bãi đậu xe cho bằng được, mọi việc tới đâu thì tới chứ không thể đứng trú mưa ở hàng hiên này. Chạy không ngoái đầu lại nhưng cảm giác rờn rợn như thể cái bóng ông già có bộ ria mép cong vểnh ấy vẫn ở sau lưng, Một con nai phóng vụt qua trước mặt Steven, làm cho Steven phải khựng lại, xa xa một quãng bên tay phải là khu nhà kho bằng gỗ to lớn lù lù, ngày thường nó  vẫn ở đó, rất hiền hòa thân thuộc, nó đã trải qua bao mưa nắng dãi dầu tháng năm. Nó đơn sơ nhưng đầy nét dâu bể hằn in. Nó  dễ gây thích thú và thiện cảm cho những người hoài cổ, ấy vậy mà giờ trông nó dễ sợ và đầy đe dọa như thế. Nó đen kịt to lù lù dưới ánh chớp lóe lên, những máy móc nông cụ bỏ hoang hoen rỉ hàng trăm năm nay. Steven và bao người khác cũng từng ngồi lên chiếc máy cày này để chụp hình, tất cả quen thuộc đến độ nhắm mắt cũng mô tả đúng từng chi tiết, ấy vậy mà giờ sao trông dễ sợ và kinh khủng quá. Cắm đầu chạy mà Steven  thấy chiếc máy cày ấy vung cái giàn lưỡi cày lên thật cao, nó hoạt động được sau khi bỏ chỏng chơ ngoài trời hàng trăm năm, dường như nó đuổi theo và muốn bổ xuống đầu mình, nó muốn cày nát mình ra. Vẫn chạy không ngừng, nước mưa ràn rạt trên mặt không kịp gạt đi, bãi đậu xe đã gần lắm rồi, cả bãi xe vắng teo, chỉ còn có mỗi xe của Steven mà thôi. Trời đất tối sầm, một tia chớp rạch nát bầu trời, phóng xẹt xuống mặt đất, qua ánh chớp, chiếc xe màu xám bạc quen thuộc nằm dưới làn nước mưa xối xả. Steven hy vọng tới được xe và vào được bên trong là ổn, Steven hoảng quá nên quên khuấy đi là chìa khóa xe đã đánh rơi rồi, dấn thêm vài mươi bộ nữa, Steven chụp được tay nắm cửa xe và giật thật mạnh, cửa xe trơ trơ. Steven quýnh quáng giật cửa xe vừa gào to:” Mở cửa. Mở cửa, làm ơn mở ra” tiếng gào của nó tan loãng trong tiếng mưa dông ào ạt, nước mưa cuốn trôi đi, gió thổi bạt giọng và tiếng sấm ùng oàng không ngừng nghỉ làm cho tiếng gào tan loãng trong âm thanh đầy uy lực đó. Càng hoảng loạn, càng giật cửa xe, trong khi ấy chiếc máy cày đang lừ lừ tiến lại gần. Chiếc máy cày hoen rỉ gần như mục nát hết các bộ phận, thế mà nó vẫn lặng lẽ lù lù lết đến, giàn lười cày đã gãy vài lưỡi, trông nó như hàm răng lởm chởm cái còn cái mất của người già, cái thế của nó có lẽ muốn bổ ập xuống. Steven bấn loạn tột độ, vẫn giật mạnh cửa xe dù nó trơ trơ.

 Một tia sét phóng xuống bãi xe, kế là tiếng sấm kinh hồn rền cả đất trời. Ánh sáng trong ngôi nhà ông Huie vẫn chớp tắt liên hồi, nó thấp thoáng hiện trong màn mưa trắng trời, những tia chớp dường như nối tiếp ngôi nhà với nền trời đen thẫm kia. Ánh sáng chớp liên hồi, bóng dáng người đàn ông mặc complet với bộ ria mép vểnh đứng sát cửa kiếng nhìn y chằm chặp. Sau lưng người đàn ông ấy là cả một bầy cú vọ vỗ cánh, ngúc ngoắc cái đầu, trông chúng như những con rối đang diễn trên sân khấu. Steven há hốc mồm nhìn cảnh tượng đằng sau khung cửa kiếng ấy. Cái sợ làm cho nó cứng đơ cả người và đứng sững dưới cơn mưa, ngay khoảnh khắc ấy, chiếc máy cày bổ sập dàn lưỡi cày xuống đầu  . Nó hét lên với tất cả sự kinh hoàng và sức lực có được.

 Steven choàng tỉnh, mở mắt ra thấy mình đang ngồi trên chiếc ghế bập bênh bên hiên, khu vườn đang rộn ràng với tiếng chim muông. Bất giác Steven nhìn vào trong nhà ông Huie, những con chim cú và rắn nhồi bông vẫn bất động trên giá định vị, Hình ông Huie trên bảng tiểu sử vẫn ở trên tường,  nhìn ra xa xa ngôi nhà kho vẫn lặng lẽ dưới nắng ở giữa mảnh đất trống, xung quanh là những cỗ máy nông cụ rỉ hoen với thời gian.  


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 09/2021

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.