Hôm nay,  

Trên vùng đất lạ

14/04/202321:29:00(Xem: 3381)
Truyện

sad woman
Mặt đất khô cứng dưới lưng cô. Trong bóng tối, cô không nhìn rõ khuôn mặt của gã. Nhưng cái mùi của gã thì nồng nặc bao trùm lấy cô, một cái mùi tổng hợp của mồ hôi, thuốc lá, gia vị món ăn… khiến cô muốn lộn mửa. Và thân hình to béo của gã đè nặng lên người cô. Cuộc tra tấn thể xác bắt đầu. Cô nhắm mắt lại, nghiến chặt hai hàm răng, thậm chí nín thở. Như thể đang tự đóng mọi giác quan lại. Và cố gắng không suy nghĩ gì hết. Như một cái xác. Cô ước gì mình là một cái xác thật sự, ước gì mình có thể chết đi ngay tức khắc. Nhưng tận sâu thẳm bên trong, cô biết mình không thể chết, không có quyền chết. Một phút, hai phút, năm phút… hay hàng thế kỷ đã trôi qua cho đến khi gã dừng lại, nằm vật qua một bên…
     Cho đến tận bây giờ, dù đã kỳ cọ tắm rửa hàng bao nhiêu lần, cái mùi của gã vẫn bám chặt lấy ký ức cô, cũng như cái cảm giác cơ thể bị vấy bẩn, mãi mãi không bao giờ có thể gột sạch…
 
***
 
     Alo.
    
     Alo. Có chuyện gì vậy? Sao em không trả lời, sao lại khóc? Em làm anh lo quá.
     Không, không có gì. Bao giờ anh qua đây?
     Anh nói rồi, mẹ anh đã khỏe lại, anh có thể yên tâm mà đi, tiền mọi thứ anh cũng đã gom đủ. Sang tuần tới là anh bắt đầu lên đường. Chỉ vài tháng nữa là chúng mình sẽ gặp lại nhau thôi. Hai đứa chịu khó làm ăn, chỉ vài năm là trả hết nợ cho chuyến đi, thêm vài năm nữa là có ít vốn quay trở về Việt Nam lại… Cố gắng lên em.
 
***
 
Người chủ tiệm nails, Hà, phân trần:
     – Em thấy đấy, làm ăn đâu có ai muốn phá sản hay đóng cửa. Nhưng thật sự là giữa mùa dịch này, đối với những người có nhiều vốn thì người ta gồng được, chờ qua dịch mở lại, còn chị thì không nhiều vốn mà lại vừa một cái tiệm Nails, một cái nhà hàng, chịu hết nổi, phải đóng một cái thôi.
     Từng câu từng câu của Hà vang lên lùng bùng trong tai Linh. Hà còn nói nhiều nữa nhưng Linh không nghe gì vì đầu óc cô đã chìm trong những suy nghĩ lo lắng, buồn phiền. Phát hiện ra điều đó, Hà dừng lại, nhìn cô gái ngồi trước mặt một cách ái ngại.
     Trong số tất cả 10 người thợ làm móng của Hà thì chỉ 4 người là có giấy tờ sống hợp pháp hoặc đang theo học đại học ở Anh, còn lại là dân nhập cư lậu, không một mảnh giấy lận lưng. Nhưng trong 6 người đó, hoàn cảnh của Linh là đáng quan tâm nhất, vì cô chỉ mới đến Anh đâu như 8, 9 tháng và đang mang bầu hơn 8 tháng thì bây giờ tiệm lại phải đóng cửa. Và lúc này cô ngồi đó, mặt cúi xuống, tay vân vê tà áo, mặt buồn xo. Mái tóc mỏng lòa xòa ngang vai, vóc dáng nhỏ bé, cao chỉ hơn thước rưỡi, dù đã 24, 25 tuổi nhưng trông Linh như mới 16, 17. Ngay cả cái bụng bầu vượt mặt cũng không làm cho cô có vẻ gì như một người sắp làm mẹ.
     Thấy Linh vẫn ngồi im lặng, Hà mở ngăn tủ phía dưới cái quầy tiếp tân, lấy ra một phong bì mỏng, đặt lên quầy trước mặt Linh vừa nói:
     – Em cầm lấy ít tiền. Những đứa khác thì chị không lo, chúng nó ở đây lâu rồi, chúng nó sẽ tìm được nơi khác nhanh thôi. Riêng em thì hoàn cảnh mới qua nên chị có gọi hỏi một người bạn ở London, tiệm cũng đang tạm đóng cửa trong mùa dịch, nhưng sẽ mở lại. Em ráng cầm cự qua mùa dịch, đến làm cho cô ấy. Địa chỉ, số điện thoại của cô ấy trong này.
     Linh lí nhí:
     – Cảm ơn chị.
     Linh cầm cái bì thư, nhét đại vào trong túi áo khoác. Và đứng dậy, chào rồi đi ra. Vừa bước ra khỏi cửa, lóng ngóng thế nào cái phong bì từ trong túi Linh rơi xuống đất, vài tờ tiền mệnh giá £20, £50 rơi ra. Linh vội vã cúi xuống nhặt cả tiền, cả phong bì cho vào cái túi cầm trên tay, một cái túi vải dây rút có vẽ hình bản đồ Việt Nam. Rồi cô bước đi, chiếc áo rộng thùng thình che cái bụng bầu, vai gầy dáng mỏng liêu xiêu. Nhìn từ phía sau và trong mắt người bản xứ, Linh càng giống một thiếu niên hơn là một phụ nữ đã trưởng thành.
     Nhìn theo Linh từ bên trong khung cửa kính chạy dài suốt mặt tiền cửa tiệm cho tới khi cô đi khuất, Hà thở ra rồi lại mở tủ, lấy tấm bảng nhỏ viết sẵn, đi ra treo bên ngoài cửa. Tấm bảng, viết bằng thứ tiếng Anh không được chuẩn, thông báo đóng cửa tiệm vĩnh viễn vì lý do đại dịch và làm ăn thua lỗ.
     Khi đóng cánh cửa lại từ bên trong và ngồi xuống ghế, Hà đã hoàn toàn quên mất Linh để quay trở lại với những phiền muộn, lo âu của chính mình. Như vậy là cái tiệm Nails mà cô gầy dựng hơn ba năm nay buộc phải đóng cửa vĩnh viễn! Càng nghĩ càng xót không chịu được. Tiên sư cái thằng đại dịch, tiên sư cái thằng COVID. Hà lầm bầm chửi.
 
***
 
Buổi sáng sớm. Một con đường vắng phía sau một dãy nhà kho. Sao mọi vật xam xám, nhờ nhờ như đang phủ một lớp sương mù?Một chiếc xe tải dài, phía sau có container đông lạnh đang đậu bên đường, cửa xe phía sau mở nửa chừng. Một xác người nằm dài trên mặt đất, ngay gần cửa xe, như thể bị rớt từ trong xe xuống. 2 cái xác nữa, một người phụ nữ tóc dài rũ rượi, hai cánh tay thõng xuống, bên cạnh là hai cái chân của một người đàn ông khác thò ra, nhợt nhạt. Người tài xế da trắng đứng gần chiếc xe có vẻ rối trí, hoảng hốt, đang gọi điện thoại. Một thứ tiếng nước ngoài xa lạ. Cái xác nằm ngửa dưới đất là của một thanh niên người Việt chừng 25, 26 tuổi, không mặc áo, chết vì nóng và ngạt, trước ngực còn đầy những vết cào rướm máu. Khuôn mặt người thanh niên với đôi mắt mở to trừng trừng nhìn lên bầu trời xanh xám trên cao. Chiếc điện thoại vẫn còn cầm chặt trong bàn tay co quắp lại.
Có tiếng còi xe cảnh sát, xe cứu thương từ xa đang tiến đến gần…
 
Linh giựt mình tỉnh giấc. Tiếng còi xe thực đến nỗi cô như vẫn còn nghe thấy, ngay cả khi tỉnh giấc. Và đôi mắt trừng trừng nuối tiếc cuộc đời kia rõ đến mức trái tim Linh thắt lại. Dù buồn ngủ hết sức nhưng Linh cố chống cự, vì cô biết nếu rơi vào giấc ngủ trở lại, giấc mơ kia sẽ lại tiếp nối. Vận dụng tất cả sự cố gắng, cuối cùng Linh cũng ngồi dậy được. Và khi đã ngồi dậy, cơn buồn ngủ cũng trôi đi. Linh ngồi, gục đầu vào hai bàn tay, hai vai rũ xuống.
     Bao nhiêu đêm rồi cô mơ thấy những giờ phút cuối cùng của Việt? Khi thì Việt và những người khác hoảng loạn, đập cửa, kêu gào tuyệt vọng trong cái thùng container tối om, bít bùng, nóng bức như cái hòm di động, khi thì Việt vật vã hớp những hớp không khí cuối cùng, mắt trợn ngược lên như con cá mắc cạn. Và đêm nay cô lại mơ thấy cái xác của Việt bị rơi ra ngoài, trên nền đất…
     Linh với tay bật cái đèn ngủ đầu giường. Không biết làm gì, Linh mở điện thoại ra nhìn giờ. Gần 4 giờ sáng.
     Một cách máy móc Linh mở phần tin nhắn, đọc lại tin nhắn cuối cùng của Việt vào cái ngày định mệnh ấy. “Anh xin lỗi. Anh không thở được. Nhiều người đã chết, có lẽ anh cũng vậy. Anh xin lỗi vì không bảo bọc được cho em suốt đời như đã hứa”. Từng giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống gò má Linh. Những tin nhắn Việt gửi từ lúc bắt đầu chuyến đi cho đến phút cuối cùng Linh đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần và lần nào Linh cũng khóc, vậy mà Linh cứ tưởng nước mắt mình cạn khô rồi sau hai ngày nằm vùi khóc không ăn không uống, khi hay tin Việt và những người Việt Nam khác đã chết trong chiếc container trên đường nhập cư lậu vào nước Anh.
     Khi đó cái bầu trong bụng Linh đã 5 tháng. Nhiều lần gọi điện thoại cho Việt, cô muốn nói sự thật cho Việt nghe về cái thai nhưng rồi cô không sao mở miệng được, chỉ khóc. Việt lại tưởng là cô buồn, cô đơn ở xứ người nên ra sức dỗ dành. Cô tự nhủ thôi cứ để khi Việt qua rồi hãy nói, nếu Việt thông cảm thì tốt, nếu Việt không chấp nhận thì cũng đành chịu… Nhưng rồi Việt đã bỏ cô mà đi mãi mãi…
     Trong những ngày khác cô lại đau đớn với ý nghĩ nếu hai đứa cùng đi một chuyến với nhau, nếu mẹ Việt không đổ bệnh bất ngờ, có lẽ Việt vẫn còn sống, và có lẽ chuyện đó đã không xảy ra với Linh, trong cánh rừng xa xôi của nước Pháp, những ngày khắc khoải chờ sang Anh…
     Nếu và nếu… Những chữ “nếu” không bao giờ xảy ra…
     Linh ngồi lặng lẽ trong đêm. Căn buồng nhỏ hẹp mọi khi có đến ba người cùng thuê ở, nhưng hai cô kia đã quay trở về Việt Nam tháng trước vì mùa dịch, nhiều tiệm nails đóng cửa, không có việc làm.
     Có quá nhiều lý do để Linh không quay về Việt Nam. Món nợ quá lớn vay để có tiền cho chuyến đi chưa trả được bao nhiêu. Không chỉ là tiền, cô đã trả giá quá đắt để đến được đây. Và giải thích làm sao với mẹ, với mọi người về cái bụng bầu này?
     Linh cũng không muốn nhìn thấy căn nhà tuềnh toàng xập xệ chỗ thì bằng gạch, chỗ thì gỗ, có chỗ lại vá víu tạm bợ bằng bìa carton, mảnh vườn xác xơ, thân hình bất động khô héo của người cha nằm dán trên giường từ nhiều năm nay sau một tai nạn giao thông, khuôn mặt buồn rầu, hằn nét chịu đựng của người mẹ cả đời lam lũ, những đứa em lau nhau giành nhau từng cục đường đen, từng miếng cá khô…Tất cả đang mong cô gửi tiền về, chứ không phải chờ nhìn thấy cô trở về với hai bàn tay không. Càng không phải với một cái bụng bầu, thêm một gánh nặng cho cái gia đình vốn đã bị cuộc đời đè đến không thở nổi từ lâu.
     Hai người bạn làm nails kia, dù chỉ mới quen nhau từ khi cùng sống, cùng làm nghề ở đây nhưng có đủ lòng trắc ẩn trước bi kịch của Linh, đã nhét vào tay Linh những tờ tiền nhàu nát và lời chúc may mắn trước khi trở về Việt Nam.
     Linh đứng lên đi vào toilet. Cô mở vòi, rửa mặt, vốc từng bụm nước lạnh vã lên mặt. Nước lạnh làm cô tỉnh ngủ hẳn. Đột nhiên Linh cảm thấy đau nhói ở bụng. Cô gập người xuống, nhăn mặt vì đau, định đứng thẳng người lên thì lại một cơn đau khác ập tới, cô oằn người ôm lấy bụng. Một ý nghĩ hoảng hốt: không lẽ, nhưng mình còn ít nhất mười ngày nữa mới đến ngày sinh kia mà. Giá mà mấy cô bạn kia còn ở đây. Những cơn đau nối tiếp, mỗi lúc một dồn dập, dữ dội hơn. Linh không nén được những tiếng rên.
      Giữa hai cơn đau, Linh cố gắng bước ra ngoài, chộp lấy cái điện thoại định gọi cấp cứu. Nhưng rồi mình sẽ nói gì? Tiếng Anh thì chỉ lõm bõm vài chữ. Rồi nếu người ta phát hiện ra sống không giấy tờ, đuổi về VN? Sự nhút nhát và nỗi sợ bi đuổi về còn lớn hơn cả nỗi sợ chết. Đã đến nước này thì một liều ba bảy cũng liều. Ở nhà Linh từng giúp mẹ sinh em út, rồi lại giúp chị dâu sinh con, chẳng có gì phải sợ hãi. Linh cố chịu đựng cơn đau, lấy cái túi đựng đồ chuẩn bị sẵn để đi sinh dưới chân giường rồi trở lại toilet, lót một cái khăn ra sàn và ngồi bệt xuống.
     Linh nửa nằm nửa ngồi trên sàn toilet nhoe nhoét máu, quần vắt trên nắp bồn cầu, hai chân dạng ra, một cơn đau ập tới, cô vớ lấy một cái khăn nhét vào miệng để chặn tiếng thét, cô quằn quại người vì đau.
     Trong cơn đau Linh thì thầm với Việt: “Anh ơi giúp em.”
     Có phải là linh hồn Việt đã nghe lời van xin của cô hay đứa bé biết thân biết phận mà chui ra rất nhanh. Một hình hài nhỏ bé, làn da nhăn nhúm, một màu da sẫm hơn màu da của mẹ nhiều, khắp thân người nhớp nháp chất nước ối và máu, chuồi ra trên sàn như một con cá, đôi mắt nhắm nghiền nhưng cái miệng đã mở ra khóc rất to. Một đứa con trai. Linh tránh nhìn đứa nhỏ như thể việc không nhìn, không suy nghĩ sẽ giúp cô không có bất cứ cảm xúc hay ký ức gì với cái sinh linh bé nhỏ, xa lạ kia. Cô lấy cái kéo cắt dây rốn, dùng sợi chỉ buộc cuống rốn, làm vệ sinh cho cả hai rồi bế đứa nhỏ được bọc đứa trong cái khăn dày, lết ra ngoài. Đặt đứa nhỏ lên giường, Linh cũng nằm vật xuống một bên và thiếp đi.
 
***
 
Sáng sớm Chủ Nhật, vắng lặng. Một ngôi nhà thờ Tin Lành với kiến trúc cổ, đúng kiểu nhà thờ truyền thống của Anh quốc. Những bức tường đá nặng nề đã xỉn màu vì thời gian. Bao quanh nhà thờ là khoảng đất rộng với những bia mộ bằng đá giản dị, trên mỗi cái bia đều khắc hình cây thánh giá. Trước một vài ngôi mộ vẫn còn những bó hoa của người đến viếng.
     Cổng chính của nhà thờ hé mở, trên bậc thềm một chiếc giỏ đan được để đó. Có tiếng ọ ọe. Người trông nom nhà thờ, một người Anh khoảng trên dưới 60 tuổi, tóc bạc hơn nửa, trên tay cầm một chùm chìa khóa to và một tập thánh ca (hymn book) từ trong nhà thờ đi ra. Nghe tiếng khóc và nhìn thấy cái giỏ, người đàn ông sững lại, cúi xuống nhìn và giựt mình khi thấy một đứa trẻ sơ sinh còn đỏ hỏn bọc kín trong cái tã, đang oe oe khóc. Bên trong cái giỏ còn có cả gói quần áo cho trẻ sơ sinh. Người đàn ông đứng thẳng người đưa mắt nhìn quanh. Không có ai. Cái giỏ có lẽ đã được đặt ở đây sau khi ông mở cửa đi vào bên trong nhà thờ để dọn dẹp buổi sáng, vì trước đó khi bước vào ông không hề thấy.
     Đứa bé lại khóc. Người đàn ông lắc lắc cái giỏ như để dỗ dành đứa bé, lại nhìn quanh lần nữa rồi xách cái giỏ vào trong.
 
***
 
Một sân ga nhỏ ở một thành phố phía Bắc nước Anh. Vắng vẻ. Chỉ có một cặp trẻ tuổi đang ôm nhau, một anh chàng da trắng và một cô gái da màu, miệt mài hôn nhau bất chấp chung quanh, một người nghệ sĩ đường phố tuổi trung niên, có vẻ là dân một nước Đông Âu, dáng dấp gầy gò, ăn mặc tồi tàn, trên tay xách một hộp đàn guitar cũ. Và Linh. Linh ngồi trên băng ghế chờ, khuôn mặt nhợt nhạt, đôi mắt sung húp vì khóc nhiều. Bên cạnh cô là chiếc vali nhỏ cũ kỹ và chiếc túi có hình bản đồ Việt Nam.
     Chẳng ai nói chuyện với ai. Cặp tuổi trẻ vẫn tiếp tục hôn nhau, anh chàng còn thò cả tay vào phía trong quần bạn gái từ phía sau, cô gái cười rúc rích như chuột. Có tiếng còi xe lửa rồi một chiếc xe lửa từ xa tiến tới gần. Xe lửa đi London.
     Chiếc xe lửa từ từ dừng lại. Không có ai bước xuống. Cặp trẻ tuổi và người nghệ sĩ đường phố bước lên xe. Linh cũng lặng lẽ đứng dậy, xách vali và túi bước lên theo, không hề ngoảnh đầu lại…
     Xe lửa từ từ lăn bánh…

 

– Song Chi

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.