Hôm nay,  

Vui thì vui gượng kẻo là…

1/4/202408:10:00(View: 2315)
Tạp bút

old couple

Có một lần, tôi gặp bài của một tác giả viết về nước Mỹ, rất hay rất cảm động, bà ấy nói về chồng bà và gọi ông là « y của tôi », cái cụm từ thật thân mật, y của tôi, nghe hợp thời hơn chồng tôi, anh tôi, nhà tôi… nhứt là trong trường hợp mà tôi đang muốn nói về chồng của bạn mình, thì còn tiện và hay hơn nữa. Thí dụ: Chồng của bạn Liên, tôi gọi là y Liên, chồng của bạn Dung, thì tôi gọi là y Dung, chồng của bạn Thu, thì tôi gọi là y Thu…
    Đúng là nhứt cử lưỡng tiện mà thêm thân tình, không dài dòng hay khách sáo.
    Ô hay, sao không nói hay kể chuyện bạn mình, mà lại đi kể về y của bạn, thiệt ra thì bạn cùng phái, cùng lứa, gặp nhau hoài, giống nhau quá, có gì đâu mà nói! May ra mấy ông chồng có nhiều điểm sắc nét, cá biệt hơn các bà. Đồng ý nhe. Bắt đầu là y Dung, y Dung rất hiền, vui tính, mỗi khi ăn cơm chung ở nhà Dung xong, y Dung vội đứng lên, ân cần hỏi từng người: Bạn A, café nhé? Bạn B, Chocolat sữa? Bạn E, glace hay café đá?
    Anh hỏi cho có lệ, chớ anh nhớ là mỗi đứa đều thích thứ gì rồi. Đó, y Dung rất hiếu khách và rất “serviable“. Y Dung lễ phép có lúc đến như rụt rè, y gọi các bạn của vợ là chị, ok, nhưng có lúc y xưng là em, làm tụi tôi giật mình, tụi này già quá xá hả, hay cớ sao mà y này xuống thấp rất chân phương vậy? Hình như là y có nhỏ hơn tụi tôi một tí tuổi. Không quan trọng, y thiệt thà theo phong tục Việt Nam quý hóa và phải nói là rất khiêm cung.
    Y Dung thích uống rượu, điều đó tự nhiên, ngặt cái có lúc y uống quá tay, say mèm, phải tựa vô ghế mà đứng, nhưng y không nhận là y say dù có đôi lúc y nói loăng quoăng, cũng vô thưởng vô phạt, và y còn chút tỉnh táo, để lý luận giống thi bá Vũ Hoàng Chương:
 
    Trong men cháy
    Giác quan vừa bén lửa
    Say… say không còn biết chi đời
    Nhưng em ơi,
    Đất trời nghiêng ngửa,
    Đất trời nghiêng ngửa,
    Mà thành sầu không sụp đổ đâu em!
   
Thành sầu của y Dung ở đây, y bảo không phải là sầu tình mà là sầu vong quốc! Y Dung rất vui khi được đi Việt Nam làm từ thiện hay cứu trợ y tế. Y hay tháp tùng các hội đoàn bác ái của Missions étrangères de Caritas để thông ngôn, để phát thuốc hay mổ mắt miễn phí cho đồng bào nghèo ở vùng quê vùng núi hẻo lánh, y là thành viên của giáo xứ ma mère mariculeuse. Chỉ khi đi Việt Nam làm việc công ích xã hội là y lanh lẹ, tỉnh táo hẳn lên, đúng là “một sói con sắp sẵn“ lên đường.
    Mới đây, tôi gặp y Dung, y than năm nay ở quê hương Việt Nam, vẫn đầy bão lụt hà rầm, mà không còn ai khởi xướng cứu trợ nữa, vì mấy năm qua có những người đã làm đã mang tiếng, không dám làm nữa, người chưa làm, muốn làm cũng sợ vạ lây. Nhà nước cộng sản thì mặc kệ dân, sống chết kệ dân. Thế giới rầm rộ chuyện chiến tranh bầu cử, ai cũng làm lơ.
    Thấy y buồn, tôi mách y tìm tới câu lạc bộ của Đỗ Quyên. Gọi là câu lạc bộ thì không đúng lắm, mà đó là nhà tư của Đỗ Quyên, nhà rộng rãi khu yên tĩnh và khá sang trọng. Mỗi cuối tuần, chủ nhà làm tiệc, món ăn nhiều và ngon, bầy đầy trên các dãy bàn dài, chả giò, nem nướng, thịt nguội, gỏi, xôi, bánh bao,v.v… Ai muốn dự tiệc, cứ đến và nhớ gọi cho ĐQ một tiếng trước, vì vấn đề an ninh, bạn đến, bạn cứ góp 20 euros và ăn uống tùy thích, ở đó bạn sẽ gặp bạn cũ, có thêm bạn mới, có thể có người cùng bàn thảo quan điểm chính trị, có thể tìm ra bạn tâm đầu ý hợp… và tìm được cả người yêu.
    Mấy bữa sau điện thoại hỏi y: Sao, tới nhà Đỗ Quyên có vui không? Đỗ Quyên là con chim nho nhỏ, có cái cổ màu đỏ xinh xinh. Nói năng rất tình và ưu ái! Chuyện đó biết rồi, mà hỏi y có gặp ai mới vui không?
    À có, có gặp một cái toilette đóng cửa trong kín mít, đập cửa mãi, toilette không chịu mở ra, các bà các cô xếp hàng chờ mãi không được, bí quá phải nối đuôi sang quán café ngoài phố xin cầu cứu…
    Sao Đỗ Quyên lần này kỳ cục vậy?
    Không phải là lỗi ở ĐQ, mà là thằng con trai duy nhất của cô ấy, nó không bằng lòng mẹ nó làm tiệc đãi hoài, nên nó lặng lẽ khóa trái cửa hai nhà vệ sinh lại, rồi bỏ đi chơi xa không nói, thấy cũng vui.
    Sau cùng y kết luận, nói chung ĐQ chịu khó, có thiện chí làm việc cho mình và cho cả mọi người, kẹt cái nhà đông quá, ồn như cái hội chợ, nên con, nó không chịu được.
    Sau y Dung, giờ nói tới y Liên, là chồng của bạn Liên. Y này lanh lẹ lắm, vợ chồng y có tổ ấm ở xa, tận Nice, một lần ba đứa bạn gái tôi rủ nhau xuống thăm Liên và y Liên. Lúc tụi tôi vô tới nhà, y đang bận làm vườn cắt cây cưa cành ngoài vườn rộng. Chập sau xong việc y vô chào, rồi chỉ vô four bếp, nhanh miệng: Chào quý vị, quý vị đi đường xa mệt không? Này, tôi có nướng sẵn mẻ khoai lang mời quý vị, trong lò nướng đó. Khoai ngon đáo để.
    Y có lanh thiệt mà cũng không lẹ bằng tụi tôi, khi sau dòm trong four, không còn một miếng vỏ khoai. Y cười hơi bẽn lẽn: O, cám ơn quý vị tận tình chiếu cố.
    Khoai đã trôi hết vào chỗ vô thủy vô chung…
    Cám ơn, mai tôi sẽ nướng cho một mẻ nhiều gấp đôi chỗ đó.
    Hôm sau thì ăn điểm tâm xong một lúc, y rủ ba đứa tôi ra vườn tập tài chi. Y nổi tiếng về nghề dậy aikido cho dân Tây trẻ quanh vùng y ở. Nhưng hôm đấy, có thấy y Liên dậy võ vẽ gì đâu, y chỉ dậy tụi này đứng, đứng cho vững, đứng trên hai chân, rồi trên một chân và chân kia co, dang theo đủ chiều. Một  hồi có đứa sốt ruột mới hỏi: Võ của anh là võ gì ? Aikido, taekwondo hay judo… hay chỉ có võ đứng thôi?
    Võ tự vệ, võ tấn công hay Việt Võ Đạo… thì trước hết phải tập đứng. Không đứng vững mà ra đòn một cái, rồi té lăn cổ ra đất thì đấu, đá, đỡ được ai.
    Tụi tôi đang xáo xào nhi nhô, thì Liên đứng trong cửa sổ bếp phán rằng: Thôi, dẹp cái trò đó đi, y của tôi ! Tụi nó xuống đây để tâm sự vui buồn với nhà chứ có phải xuống để tập vài miếng võ quèn đó đâu. Lỡ làm sái tay, sái chân nó đi rồi mới là phiền.
    Anh vừa đi vô nhà vừa kể, tôi mới quay lại dậy võ là nghề xưa vài ba năm nay, trước kia tôi chuyên làm hồ sơ giấy tờ cho những người tị nạn ở foyer bên kia đường. Họ là người Việt mình, có cả nhiều người Ấn Độ, Arabe, Tunisie… Họ tội nghiệp cũng như mình, phải bỏ quê hương mà tới đây tạm cư, mặt mày ngây ngô y cây chưa cắn rễ.
    Ngoài việc làm giúp đỡ cộng đồng thiện nguyện, lúc ở nhà, y Liên cũng hay đỡ tay đỡ chân cho Liên trong nhiều công việc nội trợ. Nhưng lúc vui thì làm, lúc buồn, buồn nghĩ về chuyện gì xa xăm là ý ngưng, không thiết động tay động chân nữa.
    Ngày Noël, ngày Tết cuối năm, ngày lịch sử 30-04… y nói y đang bị đắm tàu, y lẩm nhẩm đọc lại đĩa hát “les nauffragés de la liberté“. Liên kể lại trong một năm, y “đắm“ lại một vài lần, còn thường, y siêng tập luyện với học trò. Học trò rất yêu quý y.
    Có một lần đó, Liên bị cảm cúm sao đó, sốt và nằm bẹp trong giường. Y hăm hở nói: Để anh nấu cháo hành cho em ăn là đỡ, anh nấu cháo ngon, nhừ, chín rền. Y đi lấy xoong vo gạo, đổ nước, đặt lên lò và bật bếp, xong, yên trí, y ra salon ngồi vắt vẻo, mở tivi, coi hết đài nọ sang đài kia. Mãi khi có mùi khen khét bay ra, y mới nhớ tới cháo. Liên bảo cháo có khét, không sao, mình hớt lớp cháo trên ra nồi khác. Cháo khê ở đáy nồi bỏ đi. Nhưng y không nghe kịp sao đó, y vội đi lấy cây robot, cắm điện và soẹt… soẹt… soẹt… mấy giây sau, cả nồi cháo đầy, trộn lộn từ trên xuống dưới toàn là mùi khét, màu café… vậy là hai vợ chồng phải ăn cháo khét trong hai ba ngày… cũng ngon, báo hại người bịnh, đắng miệng, ăn cháo kiểu này khó nuốt lắm. Liên thương chồng, cứ vui vẻ ăn cho hết.
    Không kể lâu cái vụ nấu cháo khét, bù lại y Liên làm bếp rất giỏi, y đã từng đứng quán plats à emporter mấy năm mà nuôi nổi các con học xong đại học, chưa kể gửi tiền về giúp gia đình và đồng đội nghèo khó bên nhà.
    Y giỏi nhứt là cái món đùi gà ướp hành tiêu tỏi rồi quết foie gras lên, để thấm kỹ, xong đút lò nướng. Y Liên làm món này rất thơm ngon, mùi bay cùng ngõ, hàng xóm Tây phải sang coi, bắt chước, học nghề, nhưng họ không thể làm ngon qua mặt y Liên được. Nên khi y còn sống, y khoe Giáng Sinh năm nào y cũng có một số khách không đợi mà đến, đặt y là món gà quay hay nướng với gan ngỗng béo. Y khoe là phải nâng niu chăm sóc và kín đáo khía sâu cho gia vị thấm trước một đêm, hôm sau mới bỏ four quay. Y canh đến giờ khách đến lấy là đồ nướng vừa chín, ra lò, vàng, giòn rụm và thơm điếc cả mũi.
    Y có nhiều học trò, có đứa trả tiền đúng cuối tháng, có đứa nghèo, thiếu… mà mãi sau khi y ra đi, vẫn lác đác có đứa mang tiền lại nộp và thẫn thờ.
    Trong một đêm, y bị cảm nhẹ và ra đi vĩnh viễn không kịp từ biệt ai. Chúng tôi, gia đình và học trò đều buồn, thương tiếc, có điều được an ủi là y ra đi lanh lẹ, như có cả phước báu sau cùng trong ngũ phúc của một đời người.
    Y mà tôi kể tiếp theo đây là y Thu, chồng của Thu, y này rất chịu khó làm báo cho hội đoàn, y đánh máy, y viết, y có rất nhiều ý kiến và tư tưởng để viết, y viết lách với các tờ báo ái hữu cộng đồng của chúng tôi một thời dài hơn 20 năm. Y có tài viết về mọi đề tài, kể cả lấy tin tức và bình luận. Ngày ấy, suốt từ thứ hai đến thứ sáu, y đi làm cho một hãng bảo hiểm để nuôi vợ con. Từ chiều thứ sáu là y đã sẵn sàng hiện diện trong cái phòng nhỏ thư viện cho chúng tôi mượn làm trụ sở báo, y Thu chăm chỉ công việc làm cho đấu tranh nhân quyền, tự do cho quê hương Việt Nam. Đi biểu tình ủng hộ tinh thần Trần Văn Bá năm nào anh cũng đến sớm, đi đầu tiên. Y Thu thổ lộ chỉ có những lúc làm việc có ý nghĩa cho quê hương là những lúc y sống thực, thực là con người. Còn cái việc kiếm ăn hàng ngày trên miền đất tạm dung chỉ là lêu bêu, là lục bình trôi vất vuởng, trôi không định hướng, trôi lang thang giữa biển khơi.
    Chúng tôi làm báo là tự lực, dựa trên nhân lực độc lập là tự nguyện của rất nhiều anh chị em sinh viên Việt Nam góp công sức. Các em viết bài, đánh máy, lên trang báo và đi lấy quảng cáo. Dù số trang có hạn, nhưng tháng nào cũng dành vài trang quảng cáo, để lấy tiền trang trải nhà in. Thường thì sinh viên thay nhau đi lấy quảng cáo và gặp chủ nhà hàng, đòi tiền kỳ trước, số tiền này tuy khiêm tốn nhưng góp gió thành bão, cũng được ít nhiều cho thủ quỹ trả công nhà in, đặng còn ra những số tiếp theo.
    Thưa là đi lấy tiền công quảng cáo cũng không dễ. Thường các chủ tiệm hay khất hay đi vắng nhiều lần. Cũng có những người hào phóng trả sòng phẳng và còn ủng hộ đóng góp thêm. Điều này không được quên nói. Nhưng phần những chủ hay khất lần, hẹn tới hẹn lui, thì đi đi lại lại mất công và tốn thì giờ.
    Y Thu có nhiều lần nghe nói đòi tiền quảng cáo hơi khó, y nói, tháng đó, y đi cho. Tháng đó, tháng 12, giáp Tết, y nói y sẽ cố đòi được khá tiền về hy vọng in một số báo xuân đẹp, xôm tụ, dầy và phong phú để ra mắt đồng hương và các cộng đoàn bạn. Y y hẹn mà cuối tuần đó chưa thấy đến trụ sở làm báo. Chúng tôi nghĩ là y bệnh bất ngờ vì đã phải xông pha đòi nợ trong mấy ngày rồi, trời rét đậm đà có tuyết rơi khá dầy. Rồi có đứa đề nghị, mình gọi điện thoại cho anh Hùng, Hùng là tên y, coi ảnh đang ở đâu và có khỏe không? Nhưng điện thoại vừa reo thì y đã tới và đi vô phòng hội, cười, chào mọi người và tháo áo, mũ len treo lên ghế.
    Xin lỗi các bạn, mình kẹt xe…
    Rồi y đặt nhẹ lên bàn một xấp bạc mỏng, hình như là 5 tờ giấy 100 euros.
    Tiền đó nhé, anh thủ quỹ cất đi, nay mai trang trải tiền in.
    Xong y quay ra rót một ly nước trà đầy và ấm anh uống ực một hơi, như vừa nuốt xuôi đi một cục nghẹn.
    Mấy đứa trẻ lao nhao khen lấy khen để: Anh Hùng có duyên quá, kỳ nào đi đòi tiền cũng thành công, lại có nhiều nữa, bravo!
    Ờ, mình có duyên thiệt…
    Cái duyên đi đòi nợ thành công của y Thu, mãi sau này mới nghe nói lại là như vầy: Khi anh tới hỏi xin tiền quảng cáo, ở một tiệm ăn Á Đông lớn giữa khu phố 13, bà chủ mời anh uống nước trước tiên, rồi tiếp theo mới hạ hồi phân giải là: Hàng họ ế ẩm quá, vậy mời các anh ăn phở trừ tiền quảng cáo… được không?
    Thì ra, những lần đi mà không được việc, y toàn bỏ tiền túi ra cho tập thể in báo, y cũng không nói, sợ anh chị em thối chí, mất tinh thần. Giấu mãi rồi có một ngày, có một em sinh viên biết, kể ra, anh chị em ngỡ ngàng, rồi cũng có đứa cắc cớ hỏi: Sao anh không ăn phở đại đi anh Hùng!
    Không, ăn phở và làm báo là hai chuyện riêng rẽ. Rồi từ đó, y phán rằng, in báo, cứ gửi đi, thâu được bao nhiêu, thừa thiếu bao nhiêu, chúng ta, mọi thành viên, mỗi người, nhón tay bỏ vô quỹ ít nhiều tùy khả năng, còn thừa Hùng lấy, thiếu đâu Hùng phụ, đắp đổi cho đủ in, chúng ta góp gió làm bão, mình bỏ ra tí tiền mình được nói cho thiên hạ nghe bao nhiêu điều muốn nói.
    Vì sao ư? Chúng ta là những kẻ đắm tàu, chúng ta không kêu cứu, ai biết đâu ở đâu “au secours!“ Đại để là y Thu can đảm và nặng ký, khá nặng ký. Hay đúng ra, trong cùng một hoàn cảnh, nữ giới đa phần có thể vui cái vui thành đạt của con cái, vui trong công việc làm, trong giao tiếp xã hội, v.v… còn các y, đại để như các y vừa kể trên, các y cũng sống, cũng làm việc thì làm việc đấy, cũng sum vầy con cái đấy, nhưng làm thì làm vậy, vui thì vui vậy, chớ ở môt bên lòng, các y là những kẻ đắm tàu, nặng ký, nhớ lâu nên chìm sâu. Cho nên:
   
Vui thì vui vậy kẻo là
Ai tri ân đó mặn mà cùng ai.
 
Cám ơn cụm từ « y của tôi » của chị Trương Ngọc Bảo Xuân.

 

-- Chúc Thanh

Déc 2023

 

 

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước
Nàng tỉ tê với nhỏ bạn về những cuộc “thảo luận” sôi nổi của vợ chồng nàng. Bằng mọi giá, nàng muốn giữ cho đứa con có tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc. Bao năm qua, đã có lúc nàng buồn rầu nghĩ, mình như con gà đẻ trứng vàng. Chỉ được việc, nhờ biết đẻ trứng vàng. Nàng không dám đề cập đến chuyện tiền bạc, sợ làm chồng buồn, cho rằng nàng cậy sức mạnh kim tiền lấn áp chồng. Nàng rất may mắn trong cuộc sống ngoài xã hội. Chưa ra trường, nàng đã nhận được hợp đồng làm việc với một trong những hãng hàng đầu của nước Đức. Ngược lại, chồng nàng quá lận đận. Cả năm trời, anh chạy đôn, chạy đáo tìm việc, mà vẫn phải nằm nhà. Nàng tự nhủ, tài lộc trời ban, gia đình sống thoải mái, chứ tính toán chi mà mất hòa khí vợ chồng. Tháng tháng, nàng thanh toán nợ to, nợ nhỏ, hàng hàng lớp lớp chi phí tất yếu của xã hội văn minh.
Xíu tiếp tục cuộc hành trình bất tận của mình, đừng tưởng Xíu chơi hoang hay đi rông, phiêu bạt giang hồ vô tích sự. Chính sự lang bạt kỳ hồ của Xíu và anh em nhà Xíu đã đem lại mưa thuận gió hòa, đem lại nguồn sống cho loài người và vạn vật muôn loài. Lần này Xíu quay về lại góc Đông Nam Á châu, nơi có dòng sông thiêng liêng chảy qua.
Tôi không phải là thi sĩ, nhưng chắc cũng giống như những thi nhân của đất Việt, thường gửi gấm tâm tình u uất vào những vần thơ của mình. Những bài thơ viết xong, tôi cặm cụi chép vào nhật ký, xen vào những lời than thân trách phận, hờn mây khóc gió. Cuốn nhật ký, tôi cất kỹ trong ngăn kéo ở cái table de nuit cũ kỹ bên cạnh chiếc giường nhỏ trong phòng ngủ. Cũng may là má chưa lục ra đọc lần nào...
Cuối cùng, vợ tôi cũng đồng ý một cách vui vẻ cho tôi lấy vợ bé. Một hành động vượt ra ngoài quan niệm ái tình nghiêm túc của bà. Vợ bé tên Hà, do vợ lớn đặt. Tên khai sinh của Hà là Đỗ thị 451. Vợ lớn nói, số này hên, cộng lại là 10. Hà lai Ái Nhỉ Lan. Ở lứa tuổi gần ba mươi, chưa lấy chồng, không có con, một thân hình phước đức cho bất kỳ người đàn ông nào, sáu mươi bảy tuổi, như tôi.
Kế hoạch của anh ấy thật là hợp lý: anh ấy sẽ giấu tôi phía sau cốp xe Austin-Healey, một chiếc xe dạng rất thấp mà anh vừa mới mua bên Áo và đã tháo kính che gió ra. Chúng tôi chỉ cần đi qua bên dưới rào chắn, trong khi mấy tên cảnh sát nhân dân Vopo*2/ thì bận lo kiểm tra giấy tờ như thường lệ. Rolf đã tính toán nhiều lần, tính đi tính lại, anh lại còn xì bớt hơi các bánh xe: như thế cái xe sẽ không vượt quá 90 cms bề cao. Anh chỉ cần cúi đầu xuống, nhấn mạnh vào cần tăng tốc, thế là chúng tôi sẽ qua bên kia địa phận đất Mỹ! Một "bờ thành" nhỏ làm bằng gạch sẽ bảo vệ tôi khỏi những lằn đạn có thể xảy ra. Và rồi sau đó là tự do...
(Viết cho bằng hữu tháng tư 1954. Chúng tôi 300 thanh niên trình diện trại Ngọc Hà động viên vào Đà Lạt cùng hát bài ca Hà Nội ơi, năm 20 tuổi chưa từng biết yêu. Sau 21 năm chinh chiến, tháng tư 75 khóa Cương Quyết hát tiếp. Bao nhiêu mộng đẹp, tan ra thành khói, bay theo mây chiều. Ngày nay, tháng 7-2024 vào nursing home thăm bạn cùng khóa. Ba anh bạn đại tá lữ đoàn trưởng mũ xanh mũ đỏ cùng đại đội võ bị ra đánh trận Quảng Trị chỉ còn Ngô Văn Định. Ghé lại bên tai nghe Định hỏi nhỏ. /Bên ngoài còn mấy thằng,/ Còn liên lạc được 4 thằng. Ngoài 90 cả rồi.Tôi báo cáo./ Thằng Luyện mới đến thăm./ Định nói./ Luyện nhảy Bắc 21 năm biệt giam mà còn sống. Hay thật./ Tôi nói./ Bạn yên tâm. Ngoài này còn thằng nào chơi thằng đó./ OK bạn còn sống lo cho anh em.)
Năm Giáp Ngọ 1954 có thể gọi là năm đại diện cho tuổi thơ tôi. Chỉ trong một năm 1954 đã có quá nhiều biến cố xảy ra dồn dập trước mắt chú bé mười hai tuổi mà suốt trong đời chưa có thời điểm nào đặc biệt như vậy...
Dẫn nhập: chuyện này được viết khi sắp tròn nửa thế kỷ Sài gòn bị mất tên. Qua một phần đời của một vị Thầy dạy Toán, gắn liền với nhiều thăng trầm của lịch sử từ Việt Nam đến Mỹ, cùng nhìn lại những vết chân xưa với hy vọng các thế hệ kế tiếp học hỏi được nhiều điều để đưa được đất nước trở về vị trí "minh châu trời Đông"
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.